(BVPL) - Từ việc tổng kết thực tiễn 8 năm thi hành Bộ luật TTHS năm 2003 cho thấy, việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) là thực sự cần thiết nhằm thể chế hóa đầy đủ các yêu cầu cải cách tư pháp, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong Bộ luật hiện hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ tốt hơn quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
 

Hội thảo khoa học
Hội thảo khoa học "Một số định hướng cơ bản sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp" (ngày 17/09/2012).


Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu sửa đổi Bộ luật TTHS

Thứ nhất, sửa đổi BLTTHS phải quán triệt đầy đủ, đúng đắn quan điểm, chủ trương cải cách tư pháp thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, nhất là quan điểm cải cách tư pháp thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, văn kiện Đại hội lần thứ IX, X, XI của Đảng liên quan đến việc hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Tăng cường khả năng chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, chống làm oan người vô tội. Mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời. Thứ hai, sửa đổi BLTTHS phải trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003; tiếp tục kế thừa những quy định đang phát huy tác dụng tích cực trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm ở nước ta; khắc phục một cách căn bản những vướng mắc, bất cập qua quá trình thi hành BLTTHS. Những quy định của Bộ luật được sửa đổi, bổ sung phải đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; bảo đảm nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; nêu cao hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với công dân, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật quy định; đồng thời, bảo đảm quá trình giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan tố tụng được vận hành trôi chảy và hiệu quả hơn. Thứ ba, sửa đổi BLTTHS phải xuất phát từ thực tiễn của Việt Nam, khẳng định việc tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm vốn có của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn hiện hành ở nước ta; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng phù hợp với truyền thống văn hóa, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể của nước ta. Thứ tư, sửa đổi BLTTHS phải phân định hợp lý quyền và nghĩa vụ của các chủ thể phù hợp với các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự. Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp của Thủ trưởng các cơ quan tiến hành tố tụng theo hướng tăng quyền và tăng trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán để họ chủ động hơn trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định của mình. Phải làm cho các trình tự, thủ tục tố tụng cụ thể, công khai, minh bạch, tạo điều kiện cho những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm tố tụng, thực hiện tốt yêu cầu tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự. Thứ năm, sửa đổi BLTTHS phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp với các luật, pháp lệnh được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành; bảo đảm phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên liên quan đến hoạt động tố tụng hình sự, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Đồng thời, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm tố tụng hình sự của các nước phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Vấn đề xác định mô hình tố tụng hình sự ở nước ta thời gian tới

Từ các Nghị quyết 08 và 49 của Bộ Chính trị cho thấy, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh tranh tụng và xem đây là giải pháp quan trọng, tạo những bước cải cách có tính đột phá trong hoạt động tư pháp hình sự. Để thực hiện tốt chủ trương này cần tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm vốn có của mô hình TTHS thẩm vấn, tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình TTHS tranh tụng, nhất là tăng cường các yếu tố tranh tụng tại phiên tòa xét xử. Phạm vi, mức độ tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình TTHS tranh tụng thực chất là sửa đổi, bổ sung các quy định để các chủ thể tố tụng có thể thực hiện được đầy đủ hơn, hiệu quả hơn chức năng tố tụng của mình; tăng cường hơn nữa môi trường dân chủ, tính công khai, công bằng của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cụ thể đề xuất như sau: Đề xuất tiếp tục duy trì những nội dung của mô hình TTHS thẩm vấn hiện hành, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam: Thứ nhất, tiếp tục xác định Tòa án có vai trò tích cực, chủ động trong TTHS. Thứ hai, tiếp tục khẳng định nhiệm vụ của CQĐT và VKS là đi tìm sự thật vụ án, tìm kiếm cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội một cách khách quan, chứ không chỉ tập trung tìm kiếm các chứng cứ buộc tội như trong mô hình TTHS tranh tụng. Thứ ba, tiếp tục khẳng định mối quan hệ giữa CQĐT và VKS như BLTTHS hiện hành... Thứ tư, tiếp tục khẳng định khi THTT, VKS thực hiện chức năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, bảo đảm chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, chống làm oan người vô tội, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan THTT và người THTT. Đề xuất tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình TTHS tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam: Thứ nhất, phân định rành mạch các chức năng cơ bản của TTHS (buộc tội, bào chữa, xét xử) và quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể cho phù hợp với sự phân chia các chức năng cơ bản này của TTHS… Thứ hai, Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử, không thực hiện việc buộc tội bị cáo... Thứ ba, quy định đầy đủ các quyền và xây dựng cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS. Bổ sung các biện pháp để bị can, bị cáo và người bào chữa của họ thực hiện quyền bào chữa, chứng minh sự vô tội, giảm tội hoặc giảm nhẹ hình phạt. Thứ tư, sửa đổi căn bản các thủ tục, trình tự tố tụng tại phiên tòa để bảo đảm thực hiện tranh tụng dân chủ, bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Xác định rõ vị trí, vai trò của các chủ thể tại phiên tòa cho phù hợp với sự phân chia các chức năng cơ bản của TTHS. Thứ năm, nghiên cứu, tiếp thu một số nguyên tắc đặc trưng của tố tụng tranh tụng phù hợp với yêu cầu dân chủ hóa hoạt động tố tụng, bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người như: nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa v.v…

Sửa đổi hệ thống các nguyên tắc cơ bản của TTHS

Trên cơ sở kết quả tổng kết thực tiễn 8 năm thi hành BLTTHS năm 2003 và để thể chế hóa các yêu cầu cải cách tư pháp, việc hoàn thiện hệ thống các nguyên tắc cơ bản của TTHS tập trung vào một số vấn đề sau: Thứ nhất, sửa đổi để làm rõ hơn nội dung của một số nguyên tắc tiến bộ đã được ghi nhận tại BLTTHS hiện hành. Thứ hai, bổ sung một số nguyên tắc cho phù hợp với các yêu cầu mới của cải cách tư pháp. Thứ ba, sửa đổi một số nguyên tắc để thể hiện tư tưởng phân định hợp lý thẩm quyền của các chủ thể theo các chức năng cơ bản của TTHS, loại bỏ những thẩm quyền không phù hợp với chức năng tố tụng của chủ thể. Thứ tư, sửa đổi nhóm nguyên tắc về hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng cho phù hợp với yêu cầu mới. Thứ năm, sửa đổi BLTTHS cần rà soát để loại bỏ khỏi hệ thống các nguyên tắc, những quy định không mang tính chất là tư tưởng chỉ đạo đối với hoạt động TTHS; ghép những nguyên tắc có nội dung trùng nhau để thể hiện chung trong một điều luật nhằm tránh tản mạn; điều chỉnh lại nội dung và tên một số nguyên tắc cho phù hợp.

Hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan THTT và mở rộng diện những người THTT

Về Cơ quan điều tra: Thứ nhất, việc giao cho VKS thẩm quyền điều tra và tổ chức CQĐT trong VKS thực chất là công cụ để giúp VKS thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố. Trên cơ sở đó, đề nghị sửa quy định về thẩm quyền của các CQĐT theo hướng: CQĐT trong CAND và trong QĐND tiếp tục có thẩm quyền điều tra như BLTTHS hiện hành; CQĐT của VKSNDTC ngoài thẩm quyền điều tra như BLTTHS năm 2003 còn có thẩm quyền điều tra trong những trường hợp khác mà Viện trưởng VKSNDTC xét thấy cần thiết. Thứ hai, phân định rõ hơn thẩm quyền điều tra giữa các cấp CQĐT trong cùng hệ thống nhằm giảm thiểu các trường hợp CQĐT cấp trung ương điều tra các vụ án thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra cấp dưới như hiện nay… Thứ ba, bổ sung các quy định để bảo đảm mọi hoạt động điều tra của CQĐT phải đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của VKS… Thứ tư, mở rộng diện các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm tăng khả năng phản ứng nhanh chóng, kịp thời với tình hình tội phạm xảy ra trên tất cả các lĩnh vực, địa bàn…

Về Viện kiểm sát: Sửa đổi các quy định của BLTTHS để thực hiện tốt yêu cầu của Đảng “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra”. Thứ nhất, sửa đổi các quy định để bảo đảm VKS nắm bắt được đầy đủ, kịp thời các tố giác, tin báo về tội phạm. Theo đó, sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, các cơ quan có trách nhiệm thông báo ngay cho VKS. Thứ hai, quy định VKS có thẩm quyền trực tiếp xác minh tố giác tin báo khi xét thấy cần thiết. Thứ ba, để xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa CQĐT và VKS, tăng cường trách nhiệm của VKS trong giai đoạn điều tra, đề xuất hai phương án: Phương án 1: Trên cơ sở đề nghị của CQĐT, VKS trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn thay vì việc phê chuẩn các lệnh, quyết định của CQĐT như hiện hành. Đồng thời, chuyển các quyền đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can mà Bộ luật hiện hành quy định cho CQĐT sang VKS thực hiện. Trên cơ sở kết quả điều tra, VKS quyết định việc truy tố bị can ra Tòa hoặc tạm đình chỉ, đình chỉ khi có đủ căn cứ do pháp luật quy định. Phương án 2: tiếp tục quy định trách nhiệm của VKS trong việc phê chuẩn các lệnh, quyết định của CQĐT như BLTTHS hiện hành. Đồng thời, bổ sung các cơ chế để VKS thực hiện tốt trách nhiệm phê chuẩn này. Thứ tư, quy định rõ trách nhiệm của VKS trong việc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT. Bổ sung các quy định để bảo đảm mọi yêu cầu, quyết định tố tụng của VKS có tính chất bắt buộc CQĐT phải chấp hành. Nếu không đồng ý vẫn phải chấp hành nhưng có quyền kiến nghị lên VKS cấp trên. Đồng thời, bổ sung các quy định xác định trách nhiệm của VKS, KSV trong trường hợp ra các quyết định, yêu cầu tố tụng không có căn cứ hoặc không đúng pháp luật. Thứ năm, quy định khi xét thấy cần thiết, VKS có quyền rút vụ án để trực tiếp điều tra thay vì chỉ có thẩm quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra như quy định hiện hành. Đồng thời, đề nghị bổ sung bộ máy và con người ở VKS các cấp để thực hiện thẩm quyền này. Thứ sáu, quy định trách nhiệm của VKS chủ động ra quyết định chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền mà không chờ đến khi CQĐT đề nghị mới ra quyết định chuyển như hiện nay. Thứ bảy, quy định VKS có thẩm quyền quyết định miễn tố đối với những trường hợp xét thấy không cần thiết truy tố ra tòa để bảo đảm kết hợp hài hòa lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội, lợi ích cá nhân. Trên cơ sở đó, bổ sung chế định miễn tố trong BLTTHS.

Việc sửa đổi BLTTHS về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS để thực hiện tốt yêu cầu của Đảng “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa”: Thứ nhất, để bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị bổ sung quy định KSV, bên bào chữa có quyền đề nghị Tòa án triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa. Thứ hai, để bảo đảm nguyên tắc có buộc tội mới có xét xử, đồng thời bảo đảm tính chủ động của KSV thực hành quyền công tố tại phiên tòa, đề nghị sửa quy định về việc rút quyết định truy tố của KSV theo hướng: nếu tại phiên tòa KSV rút một phần quyết định truy tố thì Tòa án chỉ xét xử phần quyết định truy tố còn lại; nếu KSV rút toàn bộ quyết định truy tố thì vụ án phải được đình chỉ. Thứ ba, sửa đổi quy định về trách nhiệm và trình tự xét hỏi tại phiên tòa cho phù hợp với trách nhiệm của các chủ thể trong TTHS và yêu cầu đẩy mạnh tranh tụng theo hướng: việc xét hỏi chủ yếu do bên buộc tội và bên bào chữa thực hiện. KSV hỏi trước, sau đó đến người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử chỉ hỏi sau khi các bên đã hỏi xong mà thấy còn những vấn đề chưa rõ hoặc có mâu thuẫn. Thứ tư, nhằm nâng cao trách nhiệm, chất lượng luận tội của KSV tại phiên tòa, phúc đáp yêu cầu đẩy mạnh tranh tụng, đề nghị quy định bản luận tội là một văn bản pháp lý được lưu cùng hồ sơ vụ án. Đồng thời, quy định đầy đủ, cụ thể hơn các nội dung của bản luận tội. Thứ năm, để nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm, đề nghị xác định thời điểm tính thời hạn kháng nghị là kể từ khi nhận được bản án, quyết định sơ thẩm. Quy định rõ các căn cứ kháng nghị trên cơ sở pháp điển hóa Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm để tập trung kháng nghị những bản án có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Thứ sáu, để bảo đảm chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, bổ sung trách nhiệm và thời hạn Tòa án cấp phúc thẩm chuyển hồ sơ cho VKS cùng cấp nghiên cứu và thời hạn nghiên cứu hồ sơ của VKS cùng cấp. Sau phiên tòa phúc thẩm, bổ sung quy định Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho VKS cùng cấp nhằm tạo điều kiện để VKS cùng cấp kiểm tra bản án phúc thẩm, đề xuất việc xem xét kháng nghị giám đốc thẩm. Về sửa đổi BLTTHS để VKS thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp: Thứ nhất, sửa đổi BLTTHS theo hướng bảo đảm mọi quyết định, văn bản tố tụng ban hành trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, xét xử, thi hành án phải được gửi cho Viện kiểm sát trong thời hạn luật định. Thứ hai, bổ sung các quy định xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các yêu cầu, kiến nghị của VKS. Thứ ba, bổ sung các quy định nhằm xác định rõ đối tượng, phạm vi, phương thức thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự...

Về Tòa án: Đề xuất 2 phương án: Phương án 1: Tiếp tục xác định Tòa án có trách nhiệm trong việc chứng minh tội phạm. Phương án 2: Tòa án không có trách nhiệm chứng minh tội phạm, Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử, không thực hiện việc buộc tội bị cáo, loại bỏ một số thẩm quyền không phù hợp với chức năng xét xử của Tòa án. Về việc mở rộng diện những người tiến hành tố tụng: Mở rộng diện những người THTT theo hướng ngoài những người THTT quy định trong BLTTHS năm 2003, bổ sung thêm Trợ lý Điều tra viên và Trợ lý Kiểm sát viên (Kiểm tra viên)...

Phân định hợp lý thẩm quyền của Thủ trưởng các cơ quan THTT với những người trực tiếp THTT (Điều tra viên, KSV, Thẩm phán)

Để thể chế hóa yêu cầu của Nghị quyết số 49-NQ/TW, đề xuất sửa đổi BLTTHS theo hướng: Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát chủ yếu thực hiện các thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp; đối với các thẩm quyền tố tụng tư pháp, chỉ ban hành các quyết định có tính chất quyết định đối với việc xử lý vụ án hoặc các quyết định có tính chất tạm thời hạn chế các quyền tự do cơ bản của công dân. Trong phạm vi được phân công, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra có thẩm quyền như Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền như Viện trưởng Viện kiểm sát và khi ký các văn bản tố tụng thì ký với tư cách độc lập, không phải ký thay như hiện nay. Các quyết định tố tụng có tính chất phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện. Chánh án, Phó Chánh án chỉ thực hiện các thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp. Tăng quyền hạn tố tụng cho Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử theo hướng có tất cả các thẩm quyền tố tụng của Chánh án, Phó Chánh án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử như BLTTHS hiện hành. Nghiên cứu việc quy định thẩm quyền của Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh và Chánh án TAND cấp tỉnh theo hướng chỉ tiến hành tố tụng trong những trường hợp đặc biệt nhằm giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa Chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát và Thủ trưởng Cơ quan điều tra. Trên cơ sở đó, nghiên cứu việc chuyển các Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra ở VKSNDTC thành các Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, có vị trí tố tụng như các Tòa chuyên trách TANDTC.

Hoàn thiện chế định những người tham gia tố tụng và một số thiết chế bổ trợ tư pháp

Thứ nhất, bổ sung một số quyền đồng thời quy định rõ hơn nghĩa vụ, trách nhiệm của những người tham gia tố tụng. Bổ sung quy định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và tạo điều kiện để người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền của họ; các biện pháp chế tài áp dụng với người tiến hành tố tụng nếu vi phạm quyền của người tham gia tố tụng. Thứ hai, sửa đổi các quy định để bảo đảm tốt quyền bào chữa của bên bị buộc tội. Thứ ba, hoàn thiện chế định giám định tư pháp theo hướng quy định cụ thể hơn trình tự, thủ tục trưng cầu giám định… Thứ tư, hoàn thiện chế định các cơ quan bổ trợ tư pháp (tổ chức giám định tư pháp, luật sư, công chứng, phiên dịch tư pháp) theo hướng khẳng định vai trò, trách nhiệm của các cơ quan này trong đấu tranh, phòng chống tội phạm; quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể này trong việc giúp cho hoạt động tố tụng được thuận lợi, bảo đảm sự khách quan và giá trị của các chứng cứ đã thu thập được.

Hoàn thiện biện pháp ngăn chặn và một số hoạt động tố tụng khác

Thứ nhất, sửa đổi BLTTHS theo hướng rà soát để bảo đảm mọi hoạt động tố tụng phải được điều chỉnh chi tiết về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục, trình tự, thời hạn tiến hành. Khắc phục cách quy định chung chung, thiếu tính cụ thể của một số hoạt động tố tụng trong Bộ luật hiện hành. Thứ hai, sửa đổi căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam theo hướng kết hợp giữa căn cứ phân loại tội phạm trong Bộ luật hình sự (BLHS) với căn cứ cho rằng nếu không áp dụng biện pháp tạm giam, bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố xét xử, thi hành án, bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam với một số loại tội mà BLHS quy định hình phạt tiền là hình phạt chủ yếu; các tội phạm do lỗi vô ý; một số tội thuộc nhóm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng và quản lý hành chính, môi trường… Thứ ba, sửa đổi để phát huy hiệu quả của các biện pháp ngăn chặn có tính chất thay thế cho biện pháp tạm giam…

Hoàn thiện một số thủ tục đặc biệt

Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm: Thứ nhất, quy định chặt chẽ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm nhằm khắc phục tình trạng kháng nghị nhiều như hiện nay, đưa giám đốc thẩm trở về vị trí là thủ tục đặc biệt trong TTHS. Thứ hai, phạm vi giám đốc thẩm chỉ giới hạn trong phạm vi kháng nghị để phù hợp với tính chất của giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt chứ không phải cấp xét xử thứ ba. Thứ ba, về kỹ thuật, đề nghị nhập chung giám đốc thẩm và tái thẩm vào một chương vì cơ bản giống nhau về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành, tránh trùng lắp khi thiết kế điều luật. Về thủ tục tố tụng đối với vụ án có người chưa thành niên: Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung thủ tục này theo hướng không chỉ áp dụng với người chưa thành niên phạm tội mà áp dụng cho cả người chưa thành niên là người bị hại, người làm chứng. Thứ hai, đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ án có người chưa thành niên phạm tội theo hướng rút ngắn thời hạn điều tra, truy tố, xét xử, tạm giam. Đồng thời phân hóa thời hạn tạm giam giữa người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.


Về thủ tục rút gọn: Thứ nhất, mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn cả với những vụ án phạm tội không quả tang nhưng thuộc loại tội ít nghiêm trọng, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, người phạm tội nhận tội. Thứ hai, để bảo đảm tính dân chủ, chặt chẽ của điều luật, bổ sung căn cứ áp dụng là phải có sự đồng ý của người phạm tội… Thứ ba, quy định việc xét xử do một Thẩm phán tiến hành, không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân...

Hoàn thiện chế định thời hạn tố tụng

Thứ nhất, sửa đổi BLTTHS theo hướng bảo đảm mọi hoạt động tố tụng đều phải bị ràng buộc bởi thời hạn tố tụng, tránh sự tùy tiện. Thứ hai, tăng một số thời hạn tố tụng nhằm bảo đảm tính khả thi và tránh gây áp lực với các cơ quan và người THTT. Thứ ba, quy định chặt chẽ và rút ngắn một số thời hạn tố tụng để đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án. Thứ tư, sửa đổi BLTTHS để xử lý một số bất cập khác trong quy định về thời hạn, đồng thời, cần có quy định về thời hạn và cơ chế phối hợp giữa VKS các cấp trong việc giải quyết các vụ án do VKS cấp trên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra chuyển VKS cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử.

Ngoài ra, việc sửa đổi BLTTHS cũng cần tiếp tục hoàn thiện chế định thi hành án. Thêm vào đó, các chế định hợp tác quốc tế trong BLTTHS cũng cần được hoàn thiện như: bổ sung đầy đủ, cụ thể các quy định về thẩm quyền, thủ tục, trình tự, thời hạn thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp, dẫn độ tội phạm và các cam kết hợp tác quốc tế khác; nội luật hóa các cam kết trong điều ước quốc tế để thuận lợi trong thực tiễn thực hiện; bổ sung các quy định về công nhận là chứng cứ đối với các tài liệu, đồ vật do nước ngoài chuyển giao cho cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự; bổ sung các quy định để xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của VKSNDTC khi thực hiện vai trò của cơ quan đầu mối trung ương trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự... Sửa đổi BLTTHS theo hướng tách các quy định về tương trợ tư pháp thành một chương riêng để điều chỉnh các nội dung liên quan đến hoạt động này… Về một số vấn đề mới: đề nghị sửa chế định chứng cứ theo hướng bổ sung ngoài cơ quan THTT và người THTT thì các chủ thể khác cũng có quyền thu thập, sử dụng chứng cứ; mở rộng hơn các nguồn chứng cứ như băng ghi âm, ghi hình, đĩa điện tử và các phương tiện khác có khả năng ghi lại dấu vết của tội phạm; nghiên cứu việc quy định một số biện pháp trinh sát chỉ được thực hiện sau khi có quyết định phê chuẩn của VKS và kết quả thu được từ hoạt động trinh sát có sự phê chuẩn của VKS được công nhận là chứng cứ của vụ án…

Hoàn thiện khung kết cấu của BLTTHS

BLTTHS hiện hành gồm 8 phần, 37 chương và 346 điều. Để tiếp tục hoàn thiện BLTTHS theo hướng tăng cường tính khoa học, cụ thể, đáp ứng yêu cầu mỗi hoạt động tố tụng phải được điều chỉnh chi tiết về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục, trình tự và thời hạn tiến hành, theo đó đề nghị hoàn thiện khung kết cấu của BLTTHS gồm 8 phần và 47 chương, trong đó: Bổ sung: 13 chương mới và sắp xếp vào các phần tương ứng của BLTTHS. Ghép Chương III “Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng” và Chương IV “Người tham gia tố tụng” thành Chương “Các chủ thể tố tụng”; Chương XXX “Thủ tục giám đốc thẩm” và Chương XXXI “Thủ tục tái thẩm” thành Chương “Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm”. Sửa tên Chương VII “Biên bản, thời hạn, án phí” thành “Biên bản, thời hạn, tống đạt văn bản tố tụng, triệu tập và chi phí tố tụng”; Chương XXXV “Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự” thành “Yêu cầu, khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự”. Bỏ Chương XVI “Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp” để quy định một chương mới: “Chương thẩm quyền” đặt tại phần những quy định chung để quy định các loại thẩm quyền: xét xử, điều tra, thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
 

B.B.T

.