Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng (Viện cấp cao 2) nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự “Kiện yêu cầu huỷ hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê mái và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền”, giữa nguyên đơn là ông Lê Văn A với bị đơn là Công ty TNHH MTV đầu tư phát triển năng lượng 35 (Công ty 35) đã được TAND tỉnh L xét xử tại Bản án dân sự phúc thẩm số 20/2023/DS-PT ngày 9/3/2023 có vi phạm, do đó, Viện cấp cao 2 vừa ban hành Thông báo số 46/TB-VKS-DS ngày 5/6/2024 rút kinh nghiệm trong giải quyết vụ án này.

Theo nội dung vụ việc, tại Bản án phúc thẩm số 20/2023/DS-PT ngày 9/3/2023 của TAND tỉnh L, quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của bà Lương Thị L, ông Lê Văn A; chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty 35; sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2022/DS-ST ngày 19/10/2022 của TAND huyện Chư P, tỉnh L. Ngoài ra, Bản án phúc thẩm còn tuyên về một số nội dung khác.

Sau đó, ông A, bà L và ông Lê Đức T có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên. Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 55/QĐ-VKS-DS ngày 8/8/2023, Viện trưởng Viện cấp cao 2 đã kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm theo hướng sửa một phần bản án phúc thẩm tuyên “Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất” ngày 28/9/2020, giữa ông A, bà L và Công ty 35 vô hiệu.

leftcenterrightdel
 Quang cảnh phiên toà xét xử rút kinh nghiệm vụ án dân sự. (Ảnh minh hoạ)

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 34/2023/DS-GĐT ngày 19/9/2023 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện cấp cao 2; hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh L xét xử phúc thẩm lại vụ án theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án trên, theo Viện cấp cao 2 có một số nội dung cần rút kinh nghiệm. Cụ thể, Hợp đồng thuê mái ngày 10/7/2020 do bà L đại diện "Hộ kinh doanh Lương Thị L” ký với Công ty 35 là đúng quy định tại các Điều 101, 134, 139 Bộ luật Dân sự. Bà L và chồng là ông A cùng tham gia góp vốn thực hiện Dự án, bà L đảm nhiệm chức vụ Phó giám đốc Công ty 35, còn ông A với tư cách Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Đức T đã gửi nhiều văn bản đến Công ty Điện lực Tỉnh L đề nghị được đầu tư Dự án, bán điện cho Điện lực tỉnh L và trên thực tế, ông A là người chịu trách nhiệm thi công nhà kho. Do đó, ông A cho rằng bà L ký hợp đồng cho thuê mái, không được sự đồng ý của ông A nên yêu cầu tuyên bố hợp đồng thuê mái vô hiệu là không có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã công nhận hợp đồng thuê mái có hiệu lực là đúng quy định.

Đối với Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất do ông A và bà L ký với Công ty 35 ngày 28/9/2020 đối với thửa đất số 10, tờ bản đồ số 70, diện tích 6.055m2 thì tại GCNQSDD ngày 25/9/2020 của UBND huyện Chư P đã công nhận “Hộ kinh doanh Lương Thị L” có quyền sử dụng thửa đất số 10, tờ bản đồ số 70, diện tích 6.055m2 loại đất Nhà nước cho thuê trả tiền hàng năm.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 179 Luật Đất đai năm 2013, vợ chồng bà L sử dụng đất thuê của Nhà nước trả tiền thuê hàng năm, không được quyền cho thuê lại đất, nhưng ngày 28/9/2020, bà L và ông A ký Hợp đồng cho Công ty 35 thuê thửa đất số 10 là trái pháp luật (hiện nay UBND huyện Chư P) là đại diện Nhà nước quản lý thửa đất cũng không đồng ý cho Công ty 35 thuê lại thửa đất. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất vô hiệu là có cơ sở. Tòa án cấp phúc thẩm công nhận hiệu lực của Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất là không đúng quy định tại khoản 2 Điều 179 Luật Đất đai năm 2013.

Tuy nhiên, trong vụ án có vợ chồng ông Dương Quang Ph, bà Nguyễn Thị H, ông Đinh Công B, ông Phan Sỹ Đ, ông Trần Đắc L là những người góp vốn cùng ông Phạm Văn M đầu tư Dự án sản xuất, bán điện mặt trời áp mái do ông M thành lập Công ty TNHH một thành viên, chủ sở hữu là ông M đã vi phạm thỏa thuận về góp vốn (lẽ ra phải thành lập loại hình Công ty Cổ phần để đảm bảo quyền lợi của các thành viên góp vốn theo quy định tại Điều 87 Luật Doanh nghiệp) và ông M không minh bạch thông tin tài chính, nên những người góp vốn không yêu cầu ông M chuyển đổi loại hình Công ty để chia lợi nhuận mà chỉ yêu cầu Công ty 35 trả tiền gốc đã góp vốn và yêu cầu trả lãi, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét, giải quyết đầy đủ, thỏa đáng yêu cầu của những người góp vốn nên cần hủy Bản án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phúc thẩm lại vụ án.

P.V