Theo nội dung vụ án, khoảng 22h ngày 10/10/2023, Trần Văn H. (trú tỉnh Hà Tĩnh) đến dự đám cưới của anh Trần Văn T. và có sử dụng rượu bia. Sau khi uống rượu xong H. đã điều khiển xe ôtô đi đến quán karaoke. Trên đường đi, do không chú ý quan sát, không giữ khoảng cách an toàn nên va chạm với người đi xe đạp phía trước cùng chiều. Hậu quả, người đi đạp bị tử vong tại hiện trường.
|
|
Hiện trường vụ tai nạn giao thông. |
Sau khi gây tai nạn, H. bỏ trốn khỏi hiện trường. Đến khoảng 15h ngày 11/10/2023, H. đến Công an đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi của mình. Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy mẫu máu để trưng cầu giám định nồng độ cồn trong máu đối với H. Ngày 24/10/2023, Cơ quan chuyên môn kết luận nồng độ cồn trong máu đối với H. là (<) 8.1 mg/dl (tương đương với nhỏ hơn 0,081mg/ml). Sau khi có kết quả giám định, cơ quan điều tra đã làm việc với cơ quan chuyên môn về kết quả giám định, kết quả như sau: Đối với mẫu máu cần xét nghiệm của Trần Văn H. vào ngày 24/10/2023 thì mức nồng độ cồn nằm ngoài khoảng tuyến tính, cụ thể là nhỏ hơn (<) 8.1mg/dl nên không xác định được giá trị cụ thể của kết quả xét nghiệm nồng độ cồn. Xét nghiệm nồng độ cồn trong máu là phương pháp xét nghiệm định lượng do vậy, Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Tĩnh chỉ trả lời trị số giá trị xét nghiệm mà không xác định có hay không có nồng độ cồn.
Với kết quả giám định như trên, có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với H. với tình tiết định khung theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 BLHS hay không?
Quan điểm thứ nhất, mặc dù kết luận của cơ quan chuyên môn không xác định được cụ thể nồng độ cồn trong máu đối với H. là bao nhiêu nhưng căn cứ vào các tài liệu có đủ cơ sở xác định H. đã sử dụng rượu bia trước khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông gây tai nạn chết người. Kết luận cơ quan chuyên môn không xác định cụ thể nồng độ cồn trong máu nhưng xác định được(<) 8.1 mg/dl. Và theo quy định khoản 6 Điều 5 Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia quy định về các hành vi bị nghiêm cấm: “Điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn”. Trường hợp này cũng không thuộc 6 trường hợp bắt buộc phải giám định theo quy định tại Điều 206 BLTTHS. Mặt khác, nguyên nhân cơ quan điều tra không tiến hành xác định được nồng độ cồn trong máu đối với H. tại thời điểm gây tai nạn là do H. bỏ trốn. Do đó, có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với H. theo tình tiết định khung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 BLHS.
Quan điểm thứ hai, trong vụ án này, quá trình điều tra xác định, trước thời điểm xảy ra tai nạn giao thông, Trần Văn H. có uống bia. Sau khi xảy ra tai nạn giao thông, Trần Văn H. bỏ trốn nên không kiểm tra được nồng độ cồn tại thời điểm xảy ra tai nạn. Kết luận của cơ quan chuyên môn không xác định được giá trị nồng độ cồn trong máu đối với H là bao nhiêu. Việc kết luận (<) 8.1 mg/dl (tương đương với nhỏ hơn 0,081mg/ml) là mang định tính. Mặt khác, Cơ quan chuyên môn giải thích đối với mẫu máu cần xét nghiệm của Trần Văn H. vào ngày 24/10/2023 thì mức nồng độ cồn nằm ngoài khoảng tuyến tính, cụ thể là nhỏ hơn (<) 8.1mg/dl nên không xác định được giá trị cụ thể của kết quả xét nghiệm nồng độ cồn. Xét nghiệm nồng độ cồn trong máu là phương pháp xét nghiệm định lượng, do vậy Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Tĩnh chỉ trả lời trị số giá trị xét nghiệm mà không xác định có hay không có nồng độ cồn. Do đó mặc dù xác định được trước khi điều khiển xe ô tô gây tai nạn, H. có sử dụng rượu bia nhưng thực tế không có căn cứ xác định giá trị cụ thể nồng độ cồn trong máu của H. là bao nhiêu. Do vậy, không có căn cứ để xác định tại thời điểm xét nghiệm Trần Văn H. có nồng độ cồn trong máu hay không nên không có cơ sở áp dụng tình tiết định khung tăng nặng theo điểm b khoản 2 điều 260 BLHS.
Đối với tình huống nêu trên tác giả thống nhất như quan điểm thứ 2. Tuy nhiên để thống nhất trong thực tế áp dụng pháp luật khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tình tiết liên quan đến “nồng độ cồn” thì cần phải có văn bản hướng dẫn đối với một số nội dung sau:
Thứ nhất, đối với những trường hợp nồng độ cồn trong máu (<) 8.1 mg/dl, hiện nay khoa học nước ta chưa có cách thức, phương pháp nào để xác định “giá trị cụ thể” nồng độ cồn trong máu nên gây khó khăn cho người áp dụng pháp luật. Như nội dung tình huống nêu trên thì người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đã sử dụng rượu bia và kết luận cơ quan chuyên môn xác định nồng độ cồn trong máu là (<) 8.1 mg/dl (tương đương với nhỏ hơn 0,081mg/ml) nhưng trên thực tế các cơ quan tiến hành tố tụng không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người điều khiển phương tiện tham gia giao thông theo tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm b khoản 2 điều 260 BLHS.
Thứ hai, tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự quy định “Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định”. Điều luật quy định “có sử dụng rượu, bia”, như vậy căn cứ điều luật thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải chứng minh được người này “có sử dụng rượu bia” rồi sau đó mới mới chứng minh “trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định”. Vấn đề đặt ra trường hợp không sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở vẫn có nồng độ cồn như ăn các loại trái cây có khả năng lên men, ăn cơm ủ men dùng nấu rượu, uống đồ uống có ga,…) thì có bị xử lý hay không?