Viện kiểm sát có quyền quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản

Về trưng cầu giám định, Thông tư liên tịch số 09 nêu rõ: Viện kiểm sát có quyền quyết định trưng cầu giám định, trưng cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại, quyết định được lập theo Mẫu số 04/DSCI ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này.

Căn cứ, trình tự, thủ tục trưng cầu giám định, trưng cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại, quyền và nghĩa vụ của Viện kiểm sát khi trưng cầu giám định, trưng cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại thực hiện theo quy định tương ứng của Bộ luật Tố tụng dân sự, quy định của Luật Giám định tư pháp và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Trường hợp kết luận giám định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng hoặc khi xét thấy cần thiết, Viện kiểm sát yêu cầu người giám định giải thích kết luận giám định bằng văn bản hoặc trực tiếp nghe người giám định trình bày về các nội dung cần thiết của kết luận giám định trước khi quyết định việc trưng cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại.

Về định giá tài sản, theo Thông tư liên tịch số 09: Viện kiểm sát có quyền quyết định định giá tài sản, định giá lại tài sản bằng việc thành lập Hội đồng định giá hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xác định giá tài sản.

Trình tự, thủ tục thành lập Hội đồng định giá, định giá tài sản, định giá lại tài sản được thực hiện theo quy định tương ứng của Bộ luật Tố tụng dân sự và pháp luật về định giá tài sản trong tố tụng dân sự. Quyết định được lập theo Mẫu số 05/DSCI ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này.

Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xác định giá tài sản phải ghi rõ trong văn bản yêu cầu về tài sản cần định giá, thời hạn hoàn thành việc định giá, theo Mẫu số 06/DSCI ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này.

Trưng cầu ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn

Viện kiểm sát có thể trưng cầu ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn bằng cách lấy ý kiến bằng văn bản hoặc trao đổi trực tiếp. Văn bản trưng cầu ý kiến phải ghi rõ tên, địa chỉ của Viện kiểm sát trưng cầu; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân được trưng cầu ý kiến; vấn đề cần trưng cầu ý kiến; hình thức trưng cầu; thời hạn hoàn thành; các yêu cầu cụ thể khác đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân được trưng cầu và ý kiến chuyên môn, theo Mẫu số 07/DSCI ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này.

Viện kiểm sát có thể cung cấp tài liệu, vật chứng có liên quan để cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn tiến hành đánh giá, cho ý kiến.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn được Viện kiểm sát trưng cầu ý kiến có trách nhiệm đánh giá một cách độc lập, khách quan và bảo mật các thông tin liên quan đến tài liệu, vật chứng, quá trình và kết quả đánh giá; bảo quản nguyên trạng tài liệu, vật chứng; có ý kiến bằng văn bản, ký tên, đóng dấu (nếu là cơ quan, tổ chức), gửi cho Viện kiểm sát đúng thời hạn yêu cầu. Trường hợp không thể gửi ý kiến đúng thời hạn thì thông báo cho Viện kiểm sát bằng văn bản, nêu rõ lý do.

Việc trưng cầu ý kiến chuyên môn bằng hình thức trao đổi trực tiếp phải lập biên bản trao đổi, ghi rõ ý kiến của người đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có chuyên môn, có chữ ký của họ. Việc trao đổi có thể được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.

Trường hợp xét thấy ý kiến chuyên môn chưa đầy đủ, chưa rõ ràng hoặc khi xét thấy cần thiết, Viện kiểm sát đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân được trưng cầu giải thích ý kiến chuyên môn bằng văn bản hoặc trực tiếp trao đổi về các nội dung cần thiết.

Quy định về lấy lời khai, đối chất, xem xét, thẩm định tại chỗ

Về lấy lời khai, đối chất: Viện kiểm sát có thể lấy lời khai của người thuộc nhóm dễ bị tổn thương bị xâm phạm quyền dân sự, người đại diện hợp pháp của họ, người đại diện của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm, người làm chứng, người có liên quan khác. Việc lấy lời khai thực hiện theo quy định tương ứng của Bộ luật Tố tụng dân sự về lấy lời khai của đương sự, người làm chứng.

Khi xét thấy có mâu thuẫn trong lời khai của các chủ thể quy định tại khoản 1 Điều này, Viện kiểm sát có thể tiến hành đối chất giữa những chủ thể có lời khai mâu thuẫn. Việc đối chất thực hiện theo quy định tương ứng của Bộ luật Tố tụng dân sự.

leftcenterrightdel
 Đồng chí Nguyễn Huy Tiến, Viện trưởng VKSND tối cao và lãnh đạo các bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội và các hội tại Lễ ký Thông tư liên tịch.

Về xem xét, thẩm định tại chỗ, Thông tư liên tịch số 09 quy định: Khi xét thấy cần thiết, Viện kiểm sát quyết định việc xem xét, thẩm định tại nơi xảy ra hành vi vi phạm, nơi xảy ra hậu quả thiệt hại, nơi có bất động sản bị thiệt hại hoặc địa điểm khác và phải báo trước việc xem xét, thẩm định tại chỗ để người có liên quan biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định đó. Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ được lập theo Mẫu số 08/DSCI ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này.

Viện kiểm sát có thể yêu cầu đại diện ủy ban nhân dân cấp xã, Công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, người có chuyên môn phối hợp thực hiện việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động phối hợp theo yêu cầu của Viện kiểm sát.

Thủ tục xem xét, thẩm định tại chỗ thực hiện theo quy định tương ứng của Bộ luật Tố tụng dân sự

Viện kiểm sát có thể đề nghị UBND cấp xã, Công an cấp xã nơi tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ hỗ trợ, ngăn chặn hành vi cản trở việc xem xét, thẩm định tại chỗ.

Kiểm tra, đánh giá hiện trường

Để phát hiện dấu vết của vi phạm, kiểm tra, xác minh, thu thập thông tin, tài liệu, dữ liệu điện tử, vật chứng, Viện kiểm sát có thể tiến hành kiểm tra nơi xảy ra vi phạm, nơi phát hiện vi phạm, nơi xảy ra hậu quả thiệt hại, có thể dựng lại hiện trường, tổ chức diễn lại hành vi, tình huống hoặc những tình tiết khác của một sự việc nhất định và tiến hành các hoạt động thực nghiệm cần thiết.

Quyết định kiểm tra, đánh giá hiện trường được lập theo Mẫu số 09/DSCI ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này.

Khi kiểm tra, đánh giá hiện trường, phải tiến hành chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô hình, thu thập dấu vết của vi phạm, tài liệu, dữ liệu điện tử, vật chứng, đồ vật có liên quan đến vụ án; ghi rõ kết quả kiểm tra vào biên bản được lập theo Mẫu số 13/DSCI ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này.

Việc kiểm tra, đánh giá hiện trường không được xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người tham gia và người khác.

Khi kiểm tra, đánh giá hiện trường, Viện kiểm sát có thể yêu cầu đại diện UBND cấp xã, Công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, người có chuyên môn phối hợp, mời người chứng kiến tham gia. Cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động phối hợp theo yêu cầu của Viện kiểm sát.

Trường hợp cần thiết, người có hành vi vi phạm, người làm chứng, người có liên quan khác có thể tham gia.

Viện kiểm sát có thể đề nghị UBND cấp xã, Công an cấp xã nơi tiến hành kiểm tra, đánh giá hiện trường hỗ trợ, ngăn chặn hành vi cản trở việc kiểm tra, đánh giá hiện trường.

Mặt khác, Thông tư liên tịch số 09 cũng quy định về uỷ thác kiểm tra, xác minh, thu thập thông tin, tài liệu, dữ liệu điện tử, vật chứng. Cụ thể, Viện kiểm sát đang thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự công ích có thể ra quyết định ủy thác để Viện kiểm sát khác thực hiện biện pháp kiểm tra, xác minh, thu thập thông tin, tài liệu, dữ liệu điện tử, vật chứng.

Quyết định ủy thác phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức có liên quan, công việc cụ thể cần ủy thác, thời gian thực hiện ủy thác và được lập theo Mẫu số 18/DSCI ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này.

Viện kiểm sát được ủy thác có trách nhiệm thực hiện công việc được ủy thác trong thời hạn theo quyết định ủy thác và thông báo kết quả bằng văn bản cho Viện kiểm sát đã ra quyết định ủy thác; trường hợp không thực hiện được việc ủy thác thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho Viện kiểm sát đã ra quyết định ủy thác.

Trường hợp việc xác minh, thu thập thông tin, tài liệu, chứng cứ phải tiến hành ở nước ngoài thì Viện kiểm sát thực hiện việc yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự để xác minh, thu thập theo quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp dân sự.

Đình chỉ, chấm dứt, phục hồi việc kiểm tra, xác minh

Ngoài ra, Thông tư liên tịch số 09 còn quy định về đình chỉ, chấm dứt, phục hồi việc kiểm tra, xác minh. Theo đó, Viện kiểm sát ban hành quyết định đình chỉ việc kiểm tra, xác minh khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 205/2025/QH15 khoản 3 Điều 19 và khoản 3 Điều 20 của Thông tư liên tịch này.

Viện kiểm sát chỉ đình chỉ việc kiểm tra, xác minh theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 205/2025/QH15 khi người khởi kiện đã nộp đơn khởi kiện và được Tòa án thụ lý vụ án.

Sau khi đã đình chỉ việc kiểm tra, xác minh theo quy định tại khoản 2 Điều này mà xảy ra một trong các trường hợp sau đây thì Viện kiểm sát thụ lý lại vụ việc để tiến hành việc kiểm tra, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ:

Chủ thể đã khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ lợi ích công rút đơn khởi kiện khi lợi ích công chưa được bảo vệ;

Chủ thể đã khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể là nhóm dễ bị tổn thương rút đơn khởi kiện mà chủ thể là nhóm dễ bị tổn thương hoặc người đại diện hợp pháp của họ không đồng ý, có văn bản đề nghị Viện kiểm sát khởi kiện và Viện kiểm sát xét thấy cần thiết phải khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền dân sự của họ.

Trường hợp cơ quan, tổ chức quản lý, phụ trách ngành, lĩnh vực được Viện kiểm sát kiến nghị khởi kiện theo Điều 20 của Thông tư liên tịch này có văn bản đề nghị được áp dụng biện pháp xử lý khác và được Viện kiểm sát đồng ý thì Viện kiểm sát theo dõi việc thực hiện. Nếu hành vi xâm phạm quyền dân sự của chủ thể là nhóm dễ bị tổn thương hoặc lợi ích công đã chấm dứt và hậu quả đã được khắc phục thì Viện kiểm sát đình chỉ việc kiểm tra, xác minh theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 205/2025/QH15. Nếu biện pháp xử lý khác không được thực hiện đúng hoặc không hiệu quả thì Viện kiểm sát tiếp tục tiến hành việc kiểm tra, xác minh.

Viện kiểm sát ban hành quyết định chấm dứt việc kiểm tra, xác minh khi Viện kiểm sát đã thụ lý vụ việc dân sự công ích mà chủ thể thuộc nhóm dễ bị tổn thương là đối tượng được bảo vệ chết, lợi ích công được bảo vệ không còn tồn tại.

Viện kiểm sát ban hành quyết định phục hồi việc kiểm tra, xác minh trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 12 của Nghị quyết số 205/2025/QH15 và trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định, Viện kiểm sát gửi quyết định cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Tài liệu, chứng cứ Viện kiểm sát đã thu thập trước khi đình chỉ việc kiểm tra, xác minh tiếp tục được sử dụng sau khi Viện kiểm sát phục hồi việc kiểm tra, xác minh.

P.V