Đại diện Viện kiểm sát bác bỏ tính xác thực các tài liệu do nguyên đơn cung cấp

TAND TP Đà Nẵng vừa mở phiên xét xử phúc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản” giữa nguyên đơn là Công ty CP Đầu tư Xây dựng và Du lịch CIT (gọi tắt là Công ty CIT, trụ sở tại TP Huế) và bị đơn là bà Nguyễn Thị Thanh Giang (trú tại quận Hải Châu, TP Đà Nẵng). Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả khoản nợ gốc 7,5 tỉ đồng từ hai hợp đồng vay tiền năm 2010 và 2011.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên đại diện VKSND TP Đà Nẵng khẳng định, việc Công ty CIT khởi kiện đòi bà Nguyễn Thị Thanh Giang trả 7,5 tỉ đồng không có cơ sở pháp lý, do các hợp đồng vay tiền là hợp đồng giả cách, không phát sinh giao dịch thực tế, đồng thời các tài liệu do nguyên đơn cung cấp có dấu hiệu chỉnh sửa nhằm đối phó với quá trình tố tụng.

leftcenterrightdel
 Quang cảnh phiên tòa phúc thẩm Công ty CIT khởi kiện bà Nguyễn Thị Thanh Giang.

Trước đó, vụ án đã được TAND quận Hải Châu, TP Đà Nẵng đưa ra xét xử sơ thẩm và bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Quan điểm của đại diện VKSND quận Hải Châu tại phiên sơ thẩm được HĐXX đồng tình, cho rằng không có chứng cứ chứng minh bà Giang thực tế đã nhận tiền và phát sinh nghĩa vụ trả nợ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND TP Đà Nẵng tiếp tục khẳng định quan điểm thống nhất với Viện kiểm sát cấp sơ thẩm, đồng thời phân tích sâu các mâu thuẫn trong chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp nhằm làm rõ bản chất vụ việc.

Theo đại diện VKSND TP Đà Nẵng, Công ty CIT cho rằng đã ký hai hợp đồng cho bà Giang vay tổng cộng 7,5 tỉ đồng, có kèm theo phiếu chi và chữ ký xác nhận. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà Giang khẳng định không nhận bất kỳ khoản tiền nào từ Công ty CIT. Bà cho rằng thời điểm ký hợp đồng, bà và ông Phạm Văn Hải – Tổng giám đốc Công ty ký kết hợp đồng chỉ nhằm giúp ông Hải hợp thức hóa dòng tiền nội bộ của doanh nghiệp.

Đáng chú ý, báo cáo tài chính của Công ty CIT do Cục Thuế tỉnh Thừa Thiên Huế cung cấp theo yêu cầu của TAND quận Hải Châu thể hiện rõ rằng năm 2013, số dư công nợ của bà Giang đã giảm từ 7,5 tỉ đồng xuống còn hơn 1,6 tỉ đồng và đến cuối năm 2014 là 0 đồng. Điều này chứng minh rằng công ty đã tự quyết toán khoản công nợ này. Đại diện VKSND nhấn mạnh, đây là tài liệu khách quan, được thu thập từ cơ quan chức năng, có giá trị pháp lý cao.

Tuy nhiên, sau khi các báo cáo tài chính thể hiện bà Giang không còn nợ, Công ty CIT lại nộp một bộ báo cáo tài chính khác, được lập sau thời điểm khởi kiện và sau khi công ty bị thanh tra thuế, với nội dung hoàn toàn mâu thuẫn rằng bà Giang vẫn còn nợ 7,5 tỉ đồng. Đại diện VKSND TP Đà Nẵng cho rằng hành vi này là “thiếu trung thực”, thể hiện sự bất nhất, mang tính đối phó với quá trình tố tụng.

Thêm vào đó, nguyên đơn cho rằng số tiền trong báo cáo tài chính trước đây do ông Phạm Văn Hải – Tổng Giám đốc Công ty chuyển vào tài khoản công ty, chứ không phải do bà Giang trả. Tuy nhiên, bị đơn đã cung cấp tài liệu xác minh giao dịch nộp tiền do một người khác thực hiện (bà Nguyễn Thị Hiếu), chứ không phải ông Hải. Điều này càng khẳng định việc Công ty CIT điều chỉnh báo cáo là không chính xác.

VKSND TP Đà Nẵng khẳng định có đủ cơ sở xác định hợp đồng vay là giả cách

Trên cơ sở tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ và tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND TP Đà Nẵng nhận định, có đủ căn cứ xác định các hợp đồng vay tiền giữa Công ty CIT và bà Giang là hợp đồng giả cách.

Hợp đồng được lập để xử lý nội bộ dòng tiền trong công ty, hoàn toàn không phát sinh nghĩa vụ giao nhận tiền thực tế giữa hai bên. Bà Giang ký hợp đồng trong bối cảnh có quan hệ tình cảm với ông Hải và không nhận bất kỳ khoản tiền nào, cũng không có tài liệu thể hiện bà từng bị yêu cầu trả nợ trong suốt hơn 10 năm.

Việc công ty không có đối chiếu công nợ, không yêu cầu trả nợ trong thời gian dài, nhưng lại khởi kiện sau khi nội bộ công ty bị thanh tra và điều tra hình sự, càng cho thấy tính bất thường của yêu cầu khởi kiện.

leftcenterrightdel
 Quang cảnh một phiên tòa dân sự phúc thẩm khác liên quan đến Công ty CIT khởi kiện cá nhân.

Đại diện VKSND TP Đà Nẵng khẳng định, từ quá trình thu thập, đánh giá chứng cứ, có đủ cơ sở pháp lý và thực tiễn để xác định rằng, giao dịch giữa Công ty CIT và bà Nguyễn Thị Thanh Giang không phát sinh thực tế. Đây là hợp đồng giả cách, nhằm mục đích xử lý tài chính nội bộ. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có căn cứ chấp nhận.

Từ các căn cứ nêu trên, Kiểm sát viên đại diện VKSND TP Đà Nẵng đề nghị HĐXX bác toàn bộ kháng cáo của Công ty CIT, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 123/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của TAND quận Hải Châu.

Tại phiên tòa phúc thẩm, sau khi xét xử xong, HĐXX đã ấn định ngày tuyên án. Tuy nhiên, đến ngày tuyên án như đã định, HĐXX bất ngờ quay lại phần xét hỏi. Nhưng thời điểm này, nguyên đơn không có mặt.

Thời điểm quay lại phần xét hỏi, đại diện VKSND TP Đà Nẵng tiếp tục bảo lưu quan điểm như tại phiên xét xử trước đó. HĐXX TAND TP Đà Nẵng đã quyết định tạm ngưng phiên tòa để thu thập, xác minh thêm chứng cứ và ấn định phiên tòa được mở lại vào ngày 10/6/2025.

Xuân Nha