Một ca bệnh hy hữu mà TS – BS Nguyễn Thu Hương điều trị là sán lá gan nhỏ ‘làm tổ’ trong của quý của bệnh nhân.
 


Các loài sán lá truyền qua thức ăn gây bệnh cho người phổ biến hiện nay bao gồm Clonorchis, Opisthorchis, Fasciola và Paragonimus. Trong đó, sán lá gan nhỏ có ba loài chính gây bệnh trên người là Clonorchis sinensis, Opisthorchis viverrini và Opisthorchis felineus.

Clonorchis sinensis gây bệnh sán lá gan nhỏ ở người, lần đầu tiên tìm thấy vào năm 1874. Bệnh phổ biến tại các nước có tập quán ăn cá nước ngọt sống hoặc chưa nấu chín.

Theo ước tính của WHO có khoảng 3 triệu người sống tại Thái Lan, Lào, Campuchia, miền Trung Việt Nam nhiễm sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverrini. Hơn 19 triệu người ở các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và miền Bắc Việt Nam nhiễm Clonorchis sinensis.

TS. Trần Thanh Dương, Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng TW cho biết, tại Việt Nam đã xác định bệnh do C. sinensis lưu hành chủ yếu ở miền Bắc với ít nhất 15 tỉnh, tỷ lệ nhiễm trung bình 19%. Trong đó, tỉnh có tỉ lệ nhiễm cao là Ninh Bình, Nam Định có một số điểm có tỉ lệ nhiễm lên tới 35%-37%.

Bệnh có liên quan đến tập quán ăn gỏi cá, tại Nam Định tỉ lệ dân ăn gỏi cá tại một số địa phương đến 80,4%, Ninh Bình 70%, Thanh Hoá 67,9%.

Sán lá gan nhỏ O. viverrini được tìm thấy ở ít nhất 9 tỉnh phía Nam như Phú Yên có nơi có tỷ lệ nhiễm tới 36,9%, Bình Định 11,9%, Đăk Lăk 7,6%, Đà Nẵng 0,3%, Quảng Nam 4,6%, Khánh Hoà 1,4%.

Theo TS. Dương đến năm 2013 các số liệu điều tra trong toàn quốc cho thấy sán lá gan nhỏ vẫn còn đến 32,7% tại Kỳ Sơn Hòa Bình, 27,7% tại Ba Vì-Hà Nội, 17,7% tại Nga Sơn-Thanh Hóa, 34,85%-50,55% tại Nam Định, 9,36% tại Gia Viễn-Ninh Bình, 11,1% Yên Bình-Yên Bái và tại Tuy Hòa-Phú Yên 0,4%.

TS Hương cho biết: Cả hai loài sán lá gan nhỏ C. sinensis và O. viverrini được xác định như tác nhân gây ung thư.

Con sán lá gan nhỏ là loài lưỡng tính có hình lá, dài 10-25mm chiều dài và 3-5mm chiều rộng, dày 1mm với 2 hớp khẩu (hớp khẩu miệng lớn hơn hớp khẩu bụng) và có tinh hoàn phân nhiều nhánh nhỏ.

Trứng hình hạt vừng, có nắp nhỏ, 27-35µm x 15-17µm, màu vàng hoặc nâu nhạt. Sán trưởng thành đẻ trứng và thải trứng thu tinh ra ngoài theo phân. Khi những quả trứng đó chứa phát triển đầy đủ đến giai đoạn ấu trùng lông miracidia trong nước ngọt vào vật chủ trung gian thứ nhất (ốc).

Trong các mô của ốc các miracidium phát triển và nhân lên thành ấu trùng đuôi rời ốc bơi tự do trong nước. Các ấu trùng này phát triển và xâm nhập vào vật chủ trung gian thứ hai là cá nước ngọt Cyprinidae và thành ấu trùng nang cercaria.

Người bị nhiễm do ăn cá sống hoặc chưa được nấu chín hoàn toàn, hoặc ăn các loài động vật giáp xác và rau thủy sinh nhiễm ấu trùng sán lá.

Ấu trùng này đến ở tá tràng và xâm nhập các ống dẫn mật, phát triển từ sán non đến con trưởng thành trong vòng một tháng. Khép kín chu kỳ vòng đời khoảng ba tháng. Con sán trưởng thành sống khoảng 20-25 năm.

Trên lâm sàng ca bệnh sán lá gan nhỏ thường có triệu chứng đau tức vùng gan, rối loạn tiêu hóa (kém ăn, bụng ậm ạch khó tiêu). Đôi khi có biểu hiện sạm da, vàng da và dấu hiệu gan to hay xơ gan tùy theo mức độ của bệnh. Ca bệnh được xác định bằng xét nghiệm tìm thấy trứng sán  trong phân hoặc dịch tá tràng.

Con sán trưởng thành thường ẩn nằm sâu trong ống mật nhỏ của gan, gây viêm đau tức vùng gan, rối loạn tiêu hóa, xơ hóa các mô lân cận tùy theo mức độ của bệnh.

Nghiêm trọng nhất là gây ung thư biểu mô đường mật đường mật, một thể biến chứng nghiêm trọng và gây tử vong của bệnh ung thư biểu mô đường mật do sán lá gan nhỏ.
 

Theo VTC News

.