leftcenterrightdel
 Bị cáo Đinh La Thăng tại phiên tòa. Ảnh: TTXVN

Chiều nay (11/1), phần thẩm vấn công khai tại phiên tòa kết thúc, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa đã trình bày quan điểm về giải quyết vụ án và xử lý đối với các bị cáo.

Qua xét hỏi công khai tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định:

Công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC) là 1 đơn vị thành viên của Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN). Từ năm 2008 đến năm 2012, PVC do Trịnh Xuân Thanh là Chủ tịch Hội đồng quản trị và Vũ Đức Thuận là Tổng giám đốc. Năm 2010 do việc đầu tư dàn trải, không hiệu quả dẫn tới tình hình tài chính của PVC lâm vào tình trạng mất cân đối nghiêm trọng. Để cứu vớt con tàu đang chìm đắm, thay vì có các giải pháp căn cơ để tháo gỡ khó khăn cho PVC, PVN lại giao cho PVC gánh vác thêm các khoản đầu tư có nợ xấu và thua lỗ của 5 dự án tại PVFC với giá trị lên tới 793 tỷ đồng. Tính đến năm 2011, PVC đã đầu tư tài chính vào 43 đơn vị với tổng giá trị đầu tư 3460 tỷ đồng/2500 tỷ đồng vốn điều lệ làm mất cân đối dòng tiền đầu tư gần 1000 tỷ đồng.

 Mặc dù biết rõ PVC đang gặp khó khăn rất lớn về tài chính và chưa có năng lực, kinh nghiệm để thi công những Dự án nhiệt điện lớn nhưng vì lợi ích và động cơ cá nhân, bị cáo Đinh La Thăng với vai trò là chủ tịch của PVN vẫn giao cho PVC thực hiện gói thầu EPC dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2- một công trình trọng điểm quốc gia theo hình thức Chỉ định thầu. 

Mặt khác, trong khi dự án đầu tư hiệu chỉnh chưa được phê duyệt; chưa có thiết kế FEED, tổng dự toán, thiết kế bản vẽ thi công, hồ sơ yêu cầu, hồ sơ dự thầu và một loạt các thủ tục pháp lý khác có liên quan, bị cáo Đinh La Thăng vẫn chỉ đạo cấp dưới ký kết Hợp đồng EPC số 33 ngày 28/2/2011 và Hợp đồng chuyển đổi chủ thể số 4194 ngày 13/5/2011 với giá trị lên tới 1,2 tỷ USD. Thực chất việc ký kết các hợp đồng này chỉ nhằm mục đích lấy tiền của PVN để chuyển cho PVC đang chìm đắm trong nợ nần. Chỉ trong vòng chưa đầy 10 ngày từ 23-31/5/2011 thông qua việc xin tạm ứng, PVC đã rút của PVN 1.000 tỷ đồng trên tổng số 1312 tỷ và 6,6 triệu USD tạm ứng trái quy định, sau đó PVC đã sử dụng không đúng mục đích số tiền lên tới 1.115 tỷ đồng gây thiệt hại cho PVN 119,8 tỷ đồng. Việc chỉ định nhà thầu thiếu năng lực  về kinh nghiệm cũng như tài chính là PVC thực hiện dự án còn để lại hệ lụy rất lớn khác.

Bên cạnh đó để có tiền chi tiêu và chiếm hưởng cá nhân, Trịnh Xuân Thanh Chủ tịch PVC cùng Vũ Đức Thuận TGĐ PVC đã đề ra chủ trương và giao cho Nguyễn Anh Minh, Phó Tổng giám đốc PVC chỉ đạo Lương Văn Hòa đã cùng thuộc cấp lập khống hồ sơ thiết kế, dự toán, thi công, nghiệm thu, thanh quyết toán 04 hạng mục phụ trợ của dự án Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 và dự án Nhà máy nhiệt điện Quảng Trạch 1 rút  số tiền 13.066.262.471 đồng từ Ban điều hành. Số tiền này, Trịnh Xuân Thanh chiếm hưởng 4 tỷ đồng, Vũ Đức Thuận chiếm hưởng 800 triệu đồng, Nguyễn Anh Minh chiếm hưởng 3.648.240.000 đồng, Bùi Mạnh Hiển chiếm hưởng 400 triệu đồng, Lương Văn Hòa chiếm hưởng 757.260.000 đồng, Lê Thị Anh Hoa và Nguyễn Thành Quỳnh chiếm hưởng 1.960.762.471 đồng. Số tiền 1,5 tỷ đồng còn lại Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh và Bùi Mạnh Hiển chiếm hưởng sử dụng chung.

Tại phiên tòa hầu hết các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, bị cáo Đinh La Thăng không thừa nhận trách nhiệm như cáo buộc, bị cáo cho rằng, trong quá trình triển khai Dự án NMNĐ Thái Bình 2 để xảy ra các sai phạm trong việc ký kết hợp đồng và tạm ứng cho PVC là trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân trực tiếp thực hiện. Bị cáo chỉ thừa nhận trách nhiệm là người đứng đầu, do sức ép về tiến độ nên nôn nóng, chưa chỉ đạo kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên. Bị cáo Phùng Đình Thực cũng cho rằng sau này bị cáo mới biết Hợp đồng EPC 33 là không đúng quy định, không chỉ đạo việc tạm ứng do đã phân cấp phụ trách tài chính cho Nguyễn Xuân Sơn; bị cáo Nguyễn Quốc Khánh cũng cho rằng chỉ sau này mới biết hợp đồng 33 EPC trái quy định, bị cáo không phụ trách về tài chính nên không chỉ đạo việc chi tạm ứng trái nguyên tắc; bị cáo Nguyễn Ngọc Quý cho rằng việc phê duyệt Hợp đồng EPC số 33; ký một số Quyết định đầu tư góp vốn và các phiếu ý kiến là trên cơ sở nội dung tờ trình của cấp dưới; bị cáo Lê Đình Mậu chỉ thừa nhận hành vi ký 06 Ủy nhiệm chi số tiền 817 tỷ đồng cho Ban QLDA là thực hiện theo Quyết định của PVN do Nguyễn Xuân Sơn ký. Tuy nhiên căn cứ vào các tài liệu đã thu thập được, như các văn bản có chữ ký hoặc bút tích của các bị cáo, biên bản các cuộc họp, lời khai của các bị cáo khác trong cùng vụ án, lời khai của nhân chứng, kết luận giám định cùng các tài liệu khác có đủ cơ sở khẳng định hành vi phạm tội của các bị cáo.
Đối với bị cáo Trịnh Xuân Thanh không thừa nhận việc chỉ đạo sử dụng sai mục đích nguồn vốn tạm ứng, không thừa nhận việc đề ra chủ trương, chỉ đạo việc lập khống hồ sơ thi công để rút và chiếm đoạt tiền của PVC nhưng lời khai của các bị cáo khác tại phiên tòa, lời khai của nhân chứng, tài liệu giám định chữ viết và chữ ký của của chính bị cáo trên các tài liệu hợp thức hồ sơ quyết toán khống có đủ cơ quy kết hành vi phạm tội của bị cáo 
Như vậy có đủ cơ sở khẳng định, việc VKSNDTC truy tố các bị cáo về các tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo khoản 3 Điều 165 và tội Tham ô tài sản theo khoản 4, Điều 278 -BLHS năm 1999 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thực hiện BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, căn cứ Nghị quyết số 41 ngày 20/6/2017 về việc áp dụng BLHS năm 2015, theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội thì hành vi Tham ô tài sản của các bị cáo trong vụ án này cần được áp dụng xét xử theo điểm a khoản 4 Điều 353- BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành từ 1/1/2018.

Xét về tính chất vụ án nhận thấy: Vụ án "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" và "Tham ô tài sản" xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tổng công ty Cổ phần xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC) là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, được dư luận xã hội hêt sức quan tâm. 

Đối với hành vi Cố ý làm trái quy định của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng, các bị cáo trong vụ án hầu hết là những người giữ vị trí chủ chốt trong tập đoàn kinh tế quan trọng hàng đầu của đất nước, được Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao quản lý khai thác Dầu khí- nguồn tài nguyên quý giá của quốc gia và thực hiện những dự án, công trình trọng điểm của đất nước, trong đó có Dự án NMNĐ Thái Bình 2. Tuy nhiên, quá trình thực hiện dự án nêu trên, lợi dụng vị thế, tính đặc thù cũng như nhiều ưu đãi khác của Nhà nước đối với Tập đoàn dầu khí, vì những động cơ khác nhau mà bao trùm trên đó là lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ, các bị cáo, đứng đầu là bị cáo Đinh La Thăng đã thực hiện hàng loạt hành vi sai phạm, làm trái các quy định của Nhà nước về lựa chọn nhà thầu, về ký kết hợp đồng, về tạm ứng vốn, về sử dụng vốn tạm ứng gây thiệt hại cho PVN số tiền đặc biệt lớn, và gây nhiều hệ lụy nghiêm trọng khác. Đối với hành vi Tham ô tài sản, các bị cáo mà đứng đầu là bị cáo Trịnh Xuân Thanh, người đại diện phần vốn góp của PVN tại PVC đã câu kết với nhau và với doanh nghiệp bên ngoài lập hồ sơ, quyết toán khống để chiếm đoạt số tiền rất lớn của chính PVC. 

Hậu quả của vụ án là hết sức nghiêm trọng. Số tiền thiệt hại 119 tỷ đồng và 13 tỷ tham ô chưa nói được hết tính chất mức độ nghiêm trọng của vụ án. Ngoài việc gây thiệt hại ban đầu xác định được, việc làm trên của các bị cáo đã làm Dự án kéo dài gấp đôi, làm đội vốn đầu tư gần chục ngàn tỷ đồng, số tiền nếu phạt theo tiến độ của hợp đồng đã lên tới hàng trăm triệu USD; khi có vốn tạm ứng thì sử dụng tùy tiện, trái nguyên tắc gây thất thoát lớn vốn nhà nước mà ở vụ án này do điều kiện thời hạn về tố tụng nên chưa kịp làm rõ. Đây cũng là sai phạm điển hình của PVN trong những năm vừa qua, thời điểm mà bị cáo Đinh La Thăng giữ trọng trách cao nhất của Tập đoàn. Thực tế cho thấy, bằng việc đầu tư, góp vốn tràn lan, dàn trải, thiếu kiểm soát, mang tính lợi ích nhóm đã dẫn tới việc kinh doanh thua lỗ, thất thoát vốn nhà nước hàng ngàn tỷ đồng ở nhiều dự án khác, đó cũng là tiền đề cho tham nhũng, lãng phí, thất thoát xảy ra tại Tập đoàn PVN. Không những bị cáo Đinh La Thăng phải chịu TNHS trong vụ án này mà còn kéo theo hàng loạt cán bộ, lãnh đạo chủ chốt từ Tập đoàn tới các đơn vị thành viên của PVN bị xử lý, đau xót hơn cả là trong đó có nhiều người xuất sắc, nhiều người đã từng là những nhà khoa học trong ngành dầu khí; nhiều người cũng vì đây mà tha hóa, biến chất như Trịnh Xuân Thanh là một điển hình.

Hành vi phạm tội của các bị cáo nêu trên là biểu hiện một phần của tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm không chỉ gây thiệt hại lớn về kinh tế mà còn tác động rất xấu đến chính trị, xã hội gây bức xúc trong dư luận làm suy giảm niềm tin của nhân dân.

Vì vậy, việc đưa vụ án này ra xét xử đã thể hiện quyết tâm cao độ của Đảng và Nhà nước ta trong việc kiên quyết đấu tranh phòng, chống tệ nạn tham nhũng lãng phí, thực hiện nguyên tắc thượng tôn pháp luật, tỏ rõ thái độ không khoan nhượng, không có vùng cấm đối với bất kỳ ai dù họ ở cương vị nào; mọi hành vi vi phạm pháp luật, nhất là các hành vi liên quan đến tội phạm tham nhũng đều phải bị xử lý, tài sản tham nhũng phải bị thu hồi, công lý phải được thực thi, qua đó củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

Xét về vai trò, nhân thân của các bị cáo nhận thấy:

1. Bị cáo Đinh La Thăng, nguyên Chủ tịch HĐTV PVN: Lợi dụng vị trí là người có trách nhiệm cao nhất của Tập đoàn, mặc dù biết rõ PVC không đủ năng lực và kinh nghiệm, nhưng để giúp cho PVC, lấy lý do sức ép về tiến độ, bị cáo đã chủ động đề ra chủ trương và chỉ định PVC thực hiện gói thầu EPC Dự án NMNĐ Thái Bình 2 trái với Nghị quyết của HĐTV, chỉ đạo PVPower ký Hợp đồng EPC số 33 với PVC trái quy định, sau đó chỉ đạo cấp dưới tại PVN và Ban QLDA căn cứ hợp đồng này tạm ứng cho PVC để bị cáo Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm tại PVC sử dụng không đúng mục đích gây thiệt hại cho Nhà nước. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, gây tổn hại rất lớn về mặt kinh tế cũng như xã hội. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo chưa thực sự thành khẩn, chưa nghiêm túc nhận ra những việc làm trái pháp luật của mình. Do vậy cần thiết phải xử lý thật nghiêm khắc đối với bị cáo. Tuy nhiên xét về các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, thấy: bị cáo có nhiều thành tích trong quá trình công tác, bản thân chưa có TATS, ít nhiều đã nhận 1 phần trách nhiệm về các sai phạm trong việc chỉ đạo thực hiện Dự án NMNĐ Thái Bình 2 với tư cách là người đứng đầu nên có thể xem xét giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo.

2. Bị cáo Trịnh Xuân Thanh, nguyên Chủ tịch HĐQT PVC:  Đối với hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, trong quá trình thực hiện Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, bị cáo đã chỉ đạo bị cáo Vũ Đức Thuận ký Hợp đồng EPC không đúng pháp luật để PVC được nhận và sử dụng tiền tạm ứng trái quy định gây thiệt hại cho Nhà nước. 

Đối với hành vi tham ô, bị cáo là người giữ vai trò chính trong việc đề ra chủ trương, cùng Vũ Đức Thuận chỉ đạo Nguyễn Anh Minh và Lương Văn Hòa lập khống hồ sơ, rút tiền từ Ban điều hành dự án Vũng Áng - Quảng Trạch để chia nhau sử dụng cá nhân, trong đó bị cáo trực tiếp chiếm đoạt 4 tỷ đồng và chịu trách nhiệm cùng các bị cáo Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh và Bùi Mạnh Hiển trong việc sử dụng chung khoản tiền 1,5 tỷ đồng. 
Bị cáo phạm hai tội đều thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, gây ảnh hưởng rất xấu trong dư luận. Sau khi phạm tội bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cản trở việc điều tra. Trong suốt quá trình từ các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo luôn thể hiện thái độ không thành khẩn, quanh co chối tội. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là gia đình đã tự nguyện nộp số tiền 2 tỷ đồng để khắc phục hậu quả cho bị cáo. Tuy nhiên cũng cần phải trừng trị, xử lý thật nghiêm khắc mới đảm bảo được tính răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

3. Bị cáo Phùng Đình Thực, nguyên TGĐ PVN: Trong quá trình thực hiện Dự án NMND Thái Bình 2, mặc dù biết rõ PVC không đủ năng lực và kinh nghiệm nhưng bị cáo vẫn cùng Đinh La Thăng và Nguyễn Quốc Khánh chỉ đạo việc ký Hợp đồng EPC trái quy định, sau đó chỉ đạo cấp dưới tại PVN và Ban QLDA tạm ứng cho PVC để Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm sử dụng không đúng mục đích gây thiệt hại cho Nhà nước. Tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo không thành khẩn, đổ lỗi cho cấp dưới. Do vậy cần thiết phải xử lý nghiêm khắc. Xét bản thân chưa có TATS, có nhiều thành tích được khen thưởng trong quá trình công tác nên có thể xem xét giảm nhẹ 1 phần hình phạt.

4. Bị cáo Nguyễn Quốc Khánh, nguyên PTGĐ PVN: Trong quá trình thực hiện Dự án NMNĐ Thái Bình 2, mặc dù biết rõ PVC không đủ năng lực và kinh nghiệm, nhưng bị cáo vẫn tích cực cùng với Đinh La Thăng và Phùng Đình Thực chỉ đạo ký Hợp đồng EPC số 33 trái quy định, sau đó bị cáo là người trực tiếp ký Họp đòng EPC số 4194 trái quy định, tham gia việc chỉ đạo cấp dưới tại PVN và Ban QLDA căn cứ hợp đồng này cấp tạm ứng cho PVC để Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm  tại PVC sử dụng sai mục đích gây thiệt hại cho Nhà nước. Do vậy cần xử lý nghiêm khắc. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận một phần trách nhiệm của mình, tự nguyện nộp số tiền 2 tỷ đồng để khắc phục 1 phần thiệt hại, có nhiều thành tích trong quá trình công tác, bản thân chưa có TATS, do vậy cần xem xét giảm nhẹ 1 phần hình phạt.

5. Bị cáo Nguyễn Xuân Sơn, nguyên Phó Tổng giám đốc PVN: Trong quá trình thực hiện Dự án NMNĐ Thái Bình 2, bị cáo biết rõ Hợp đồng EPC  được ký trái quy định nhưng vẫn chỉ đạo Ban QLDA tạm ứng cho PVC, không thực hiện việc chỉ đạo kiểm tra sử dụng nguồn vốn, để bị can Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm sử dụng sai mục đích gây thiệt hại cho Nhà nước. Do vậy cần phải xử lý nghiêm khắc. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận một phần trách nhiệm của mình, có nhiều thành tích trong công tác nên có thể xem xét giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo.

6. Bị cáo Vũ Đức Thuận, nguyên TGĐ PVC: Trong quá trình thực hiện dự án NMNĐ Thái Bình 2, bị cáo là người ký Hợp đồng EPC số 33 trái quy định để PVC được nhận tạm ứng và trực tiếp tham gia việc quyết định sử dụng   tiền tạm ứng sai mục đích gây thiệt hại cho Nhà nước.

Trên cương vị là Tổng giám đốc PVC, Vũ Đức Thuận có vai trò cùng với bị cáo Trịnh Xuân Thanh chỉ đạo Nguyễn Anh Minh và Lương Văn Hòa lập khống hồ sơ, rút tiền từ Ban điều hành dự án Vũng Áng - Quảng Trạch để chia nhau sử dụng. Cá nhân Vũ Đức Thuận được ăn chia số tiền 800 triệu đồng và chịu trách nhiệm cùng các bị cáo Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn Anh Minh và Bùi Mạnh Hiển trong việc sử dụng 1,5 tỷ đồng. Do vậy cần phải xử lý thật nghiêm khắc. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối lỗi, bản thân chưa có TATS, có nhiều thành tích trong quá trình công tác, có trách nhiệm cùng gia đình khắc phục hậu quả 800 triệu đồng nên cần xem xét giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo.

7. Bị cáo Nguyễn Anh Minh: Trong quá trình làm Phó Tổng giám đốc PVC, Nguyễn Anh Minh đã tiếp nhận chỉ đạo của Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận để bàn bạc, chỉ đạo bị cáo Lương Văn Hòa lập khống hồ sơ rút tiền từ Ban điều hành dự án Vũng Áng-Quảng Trạch để chia nhau sử dụng cá nhân, bị cáo Nguyễn Anh Minh chiếm hưởng 3.648.240.000 đồng và chịu trách nhiệm cùng các bị cáo Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đức Thuận và Bùi Mạnh Hiển trong việc sử dụng chung khoản tiền 1,5 tỷ đồng. Do vậy cần phải xử lý nghiêm khắc. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bản thân chưa có TATS, đã cùng với gia đình tự nguyện khắc phục hậu quả số tiền 3.560.000.000 đồng, do vậy cần xem xét giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo.

8. Bị cáo Lương Văn Hòa: Với vị trí là Giám đốc Ban Điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch thuộc PVC, bị cáo Hòa đã tích cực cùng bị cáo Nguyễn Anh Minh chỉ đạo cấp dưới lập khống hồ sơ, rút tiền từ Ban điều hành dự án Vũng Áng - Quảng Trạch để chia nhau sử dụng cá nhân, cá nhân Lương Văn Hòa được ăn chia 757.260.000 đồng. Do vậy cần phải xử lý nghiêm. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đã có trách nhiệm cùng với gia đình khắc phục hậu quả số tiền 2.460.000.000 đồng, do vậy cần xem xét giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo.
9. Bị cáo Bùi Mạnh Hiển, nguyên CVP PVC: Thực hiện chỉ đạo của Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận, bị cáo đã tích cực trong việc đã tiếp nhận tiền do bị cáo Lương Văn Hòa hợp thức hồ sơ rút từ Ban điều hành dự án Vũng Áng - Quảng Trạch chuyển lên PVC để chia nhau sử dụng. Cá nhân Bùi Mạnh Hiển được ăn chia 400 triệu đồng và chịu trách nhiệm cùng các bị cáo Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận và Nguyễn Anh Minh trong việc sử dụng chung khoản tiền 1,5 tỷ đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, đã có trách nhiệm cùng với gia đình khắc phục hậu quả số tiền 300 triệu đồng, do vậy cần xem xét giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo.

10. Bị cáo Ninh Văn Quỳnh: Trong quá trình thực hiện dự án NMNĐ Thái Bình 2, bị cáo Ninh Văn Quỳnh là Kế toán trưởng - Trưởng Ban Tài chính Kế toán PVN biết Hợp đồng EPC được ký và thực hiện trái quy định nhưng vẫn đề xuất với Nguyễn Xuân Sơn trong việc chuyển tiền cho Ban QLDA để Ban QLDA chi tạm ứng cho PVC, sau đó cũng không thực hiện việc kiểm soát việc sử dụng, để bị cáo Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm tại PVC sử dụng sai mục đích gây thiệt hại cho Nhà nước. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, có nhiều thành tích trong quá trình công tác, do vậy có thể xem xét giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo.

11. Bị cáo Lê Đình Mậu: Trong quá trình thực hiện dự án NMNĐ TB2 là Phó Trưởng Ban TCKT&KT PVN được giao quản lý vốn đầu tư, bị cáo biết Hợp đồng EPC ký trái quy định nhưng vẫn tham mưu, đề xuất với Nguyễn Xuân Sơn trong việc quyết định việc cấp tạm ứng đợt 3 và đợt 4  để Ban QLDA chi tạm ứng cho PVC trái quy định và PVC sử dụng sai mục đích góp một phần gây thiệt hại cho Nhà nước. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận một phần trách nhiệm của mình, có nhiều thành tích trong quá trình công tác nên có thể xem xét giảm nhẹ 1 phần hình phạt.

12. Bị cáo Vũ Hồng Chương- Trưởng ban QLDA, (13)Trần Văn Nguyên- KTT Ban QLDA NMNĐTB2: Trong quá trình thực hiện Dự án NMNĐ Thái Bình 2, Vũ Hồng Chương và Trần Văn Nguyên biết rõ Hợp đồng EPC số 33 được ký trái quy định, biết việc lãnh đạo PVN chỉ đạo Ban QLDA tạm ứng cho PVC là trái quy định nhưng vẫn lập các thủ tục chi tạm ứng cho PVC để bị cáo Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm sử dụng sai mục đích gây thiệt hại cho Nhà nước. Tuy nhiên các bị cáo đã có nhiều văn bản báo cáo lãnh đạo PVN về việc cho tạm ứng là chưa đủ căn cứ. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, có nhiều thành tích trong quá trình công tác, do vậy cần xem xét giảm nhẹ đáng kể phần hình phạt cho các bị cáo.

14. Bị cáo Nguyễn Ngọc Quý: Với vai trò là Phó Chủ tịch HĐQT PVC, bị can Nguyễn Ngọc Quý đã thống nhất cùng bị cáo Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đức Thuận ký Hợp đồng EPC trái quy định để PVC được nhận tạm ứng và tham gia việc quyết định sử dụng tiền tạm ứng này sai mục đích, gây thiệt hại cho Nhà nước; bị cáo có thái độ khai báo thiếu thành khẩn. Tuy nhiên bị cáo cũng có nhiều thành tích trong quá trình công tác, do vậy cần xem xét giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo.

15. Bị cáo Nguyễn Mạnh Tiến: Là Phó Tổng giám đốc PVC, Nguyễn Mạnh Tiến đã cùng các bị cáo Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận đề xuất với PVN để PVC được nhận tạm ứng và tham gia việc quyết định sử dụng  tiền tạm ứng sai mục đích gây thiệt hại cho Nhà nước. Quá trình điều tra, bị cáo thừa nhận một phần trách nhiệm của mình, có nhiều thành tích trong quá trình công tác, do vậy có thể xem xét giảm nhẹ 1 phần hình phạt.

16. Bị cáo Phạm Tiến Đạt: Trong quá trình thực hiện dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, với vai trò là Kế toán trưởng của PVC, bị cáo đã thực hiện theo chỉ đạo của Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận  sử dụng tiền tạm ứng trái quy định gây thiệt hại cho Nhà nước. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, có nhiều thành tích trong quá trình công tác do vậy cần xem xét giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo.

17. Bị cáo Nguyễn Thành Quỳnh và (18)Lê Thị Anh Hoa: Có hành vi tham gia giúp sức cho bị cáo Lương Văn Hòa lập, ký khống hồ sơ thi công, hoàn công, nghiệm thu 04 hạng mục để Lương Văn Hòa rút tiền từ Ban điều hành dự án Vũng Áng - Quảng Trạch. Quỳnh và Hoa được ăn chia số tiền 1.960.762.471 đồng, sau đó đã dùng 1.198.322.407 đồng để nộp thuế cho nhà nước. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn, bản thân đều chưa có TATS, đã tự nguyện khắc phục hậu quả 977.539.600 đồng, hậu quả của vụ án cơ bản đã được khắc phục, do vậy cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. (Bị cáo Quỳnh là người tiếp nhận việc ký khống sau đó chỉ đạo vợ là bị cáo Hoa ký).

19. Bị cáo Nguyễn Đức Hưng: Trong quá trình làm Kế toán trưởng Ban điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch, Nguyễn Đức Hưng đã tham gia ký xác nhận khống các thủ tục hợp đồng, hồ sơ thanh quyết toán, chuyển tiền theo 04 hợp đồng khống tạo điều kiện cho Lương Văn Hòa rút tiền của Ban điều hành. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, phạm tội với vai trò giúp sức, do nể nang, mối quan hệ phụ thuộc cấp trên cấp dưới, hậu quả của vụ án cơ bản đã được khắc phục, bản thân không hưởng lợi nên cần xem xét giảm nhẹ đáng kể hình phạt cho bị cáo.

20. Bị cáo Lê Xuân Khánh- TPKTKH, (21)Nguyễn Lý Hải-TP Kỹ Thuật:  Bị cáo Khánh và Hải được Lương Văn Hòa bàn bạc, giao nhiệm vụ trực tiếp tham gia hợp thức hồ sơ hợp đồng, hồ sơ thanh, quyết toán 4 hợp đồng khống tạo điều kiện cho Lương Văn Hòa rút tiền của Ban điều hành. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, phạm tội với vai trò giúp sức, do nể nang, mối quan hệ phụ thuộc, hậu quả của vụ án cơ bản đã được khắc phục, bản thân không hưởng lợi nên cần xem xét giảm nhẹ đáng kể hình phạt cho các bị cáo.

22. Bị cáo Trương Quốc Dũng, nguyên PTGĐ PVC: Trong quá trình thực hiện Dự án NMNĐ Thái Bình 2, bị cáo Dũng thực hiện theo sự chỉ đạo của bị cáo Thanh, trực tiếp quyết định, ký thủ tục để sử dụng 40 tỷ đồng/tổng số tiền từ nguồn tiền tạm ứng của dự án NMNĐ Thái Bình 2 không đúng mục đích, gây thiệt hại 2.443.697.223đ trong tổng số thiệt hại 119.804.660.196 đồng cho Nhà nước. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, sai phạm có mức độ, có nhiều thành tích trong quá trình công tác nên có thể xem xét giảm nhẹ đáng kể phần hình phạt cho bị cáo.
Đối với việc phê duyệt Dự án, điều chỉnh tổng mức đầu tư dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 và các dấu hiệu sai phạm khác tại PVN và PVC, Cơ quan An ninh điều tra, Bộ Công an đang tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật nên VKS không đề cập xem xét, xử lý trong vụ án này.

Từ những phân tích, nhận định ở trên, VKSNDTP. Hà Nội đề nghị HĐXX :

1. Áp dụng khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự 1999; điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51- BLHS năm 2015 xử phạt Đinh La Thăng từ 14 - 15 năm tù về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’’.

2. Áp dụng khoản 3 Điều 165- BLHS năm 1999; Điểm a khoản 4 Điều 353, điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 55- BLHS năm 2015, xử phạt Trịnh Xuân Thanh từ 13 - 14 năm tù về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’’; xử phạt tù Chung thân về tội Tham ô tài sản; tổng hợp hình phạt hình phạt chung cho cả hai tội là tù chung thân.

3. Áp dụng khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự 1999; Điểm v khoản1, khoản 2 Điều 51- BLHS năm 2015, xử phạt Phùng Đình Thực từ 12 - 13 năm tù về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’’.

4. Áp dụng khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự 1999; điểm b, v khoản 1, khoản 2 Điều 51- BLHS năm 2015, xử phạt Nguyễn Quốc Khánh từ 10-11 năm tù về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’’.

5. Áp dụng khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự 1999; điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51- BLHS năm 2015, xử phạt Nguyễn Xuân Sơn từ 10 - 11 năm tù về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’’.

6.  Áp dụng khoản 3 Điều 165- BLHS năm 1999; Điểm a khoản 4 Đ 353, điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 ; Điều 54; khoản1 Điều 55- BLHS năm 2015, xử phạt Vũ Đức Thuận từ 8-9 năm tù về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’’; 18-19 năm tù về tội Tham ô tài sản, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 2 tội là từ 26-28 năm tù.

7.  Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 353; điểm b, s, v khoản1, khoản 2 Điều 51; Điều 54- BLHS năm 2015, xử phạt Nguyễn Anh Minh 18 - 19 năm tù về tội Tham ô tài sản.

8.  Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 353; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 ; Điều 54- BLHS năm 2015, xử phạt Lương Văn Hòa 15-16 năm tù về tội Tham ô tài sản.

9.  Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 353 ; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54- BLHS năm 2015, xử phạt Bùi Mạnh Hiển từ 15-16 năm tù về tội Tham ô tài sản.

10. Áp dụng khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự 1999; điểm s, v khoản1, khoản 2 Điều 51- BLHS năm 2015, xử phạt Ninh Văn Quỳnh từ 10-11 năm tù về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’’.

11. Áp dụng khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự 1999; điểm s, v khoản1, khoản 2 Điều 51; Điều 54- BLHS năm 2015, xử phạt Lê Đình Mậu từ 7-8 năm tù về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’’.

12. Áp dụng khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự 1999; điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54- BLHS năm 2015, xử phạt Nguyễn Ngọc Quý từ 8 đến 9 năm tù về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’’.

13. Áp dụng khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự 1999; điểm s, v khoản1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54- BLHS năm 2015, xử phạt Nguyễn Mạnh Tiến từ 7-8 năm tù về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’’.

14. Áp dụng khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự 1999; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54- BLHS năm 2015, xử phạt Phạm Tiến Đạt từ 6-7 năm tù về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’’.

15. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 353; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54- BLHS năm 2015, xử phạt Nguyễn Thành Quỳnh từ 8-9 năm tù về tội Tham ô tài sản.

16.  Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 353; điểm b, s, v khoản1, khoản 2 Điều 51; Điều 54- BLHS năm 2015, xử phạt Lê Thị Anh Hoa 3 năm tù về tội Tham ô tài sản nhưng cho hưởng án treo.

17. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 353;  điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 ; Đ 54 - BLHS năm 2015, xử phạt Nguyễn Đức Hưng 3 năm tù về tội Tham ô tài sản nhưng cho hưởng án treo.

18. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 353; điểm s, v khoản1, khoản 2 Điều 51 ; Điều 54- BLHS năm 2015, xử phạt Lê Xuân Khánh 3 năm tù về tội Tham ô tài sản nhưng cho hưởng án treo.

19. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 353; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 ; Điều 54- BLHS năm 2015, xử phạt Nguyễn Lý Hải từ 3 năm tù về tội Tham ô tài sản nhưng cho hưởng án treo.

20. Áp dụng khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự 1999 ; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54- BLHS năm 2015, xử phạt Vũ Hồng Chương từ 2-3 năm tù về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’’ nhưng cho hưởng án treo.

21. Áp dụng khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự 1999 ; điểm s, v khoản1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54- BLHS năm 2015, xử phạt Trần Văn Nguyên từ 2-3 năm tù về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’’ nhưng cho hưởng án treo.

22. Áp dụng khoản 3 Điều 165 Bộ luật hình sự 1999 ; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 ; Điều 54- BLHS năm 2015, xử phạt Trương Quốc Dũng 17 tháng tù về tội "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’’.

Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 165- BLHS năm 1999, cấm các bị cáo Đinh La Thăng, Phùng Đình Thực, Nguyễn Quốc Khánh, Nguyễn Xuân Sơn, Ninh Văn Quỳnh, Lê Đình Mậu, Vũ Hồng Chương, Trần Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc Quý, Nguyễn Mạnh Tiến, Phạm Tiến Đạt giữ các chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế nhà nước từ 4-5 năm sau khi chấp hành xong hình phạt; Áp dụng khoản 5 Điều 353- BLHS năm 2015: Cấm các bị cáo Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh, Bùi Mạnh Hiển, Lương Văn Hòa đảm nhiệm các chức vụ liên quan đến quản lý doanh nghiệp, tài chính trong các tổ chức kinh tế nhà nước từ 4-5 năm sau khi chấp hành xong hình phạt.

Về trách nhiệm dân sự:

- Buộc các bị cáo: Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, Phùng Đình Thực, Nguyễn Quốc Khánh, Nguyễn Xuân Sơn, Vũ Đức Thuận, Ninh Văn Quỳnh, Lê Đình Mậu, Nguyễn Ngọc Quý, Nguyễn Mạnh Tiến, Phạm Tiến Đạt phải liên đới bồi thường cho PVN số tiền 119.804.660.196 đồng. Xác nhận bị cáo Khánh đã tự nguyện nộp số tiền là 2 tỷ đồng.

- Trả lại cho PVN số tiền bị cáo Nguyễn Quốc Khánh tự nguyện nộp khắc phục hậu quả.

- Trả lại cho PVC số tiền đã thu giữ của các bị cáo và gia đình các bị cáo tự nguyện nộp khắc phục hậu quả: Trịnh Xuân Thanh 2 tỷ đồng, Nguyễn Anh Minh 3.560.000.000đ, Vũ Đức Thuận 800 triệu đồng, Lương Văn Hòa 2.260.000đ, Bùi Mạnh Hiển 300 triệu đồng, Nguyễn Thành Quỳnh và Lê Thị Anh Hoa 977.539.600đ.

- Buộc các bị cáo Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh và Bùi Mạnh Hiển có trách nhiệm liên đới bồi thường cho PVC số tiền chưa khắc phục là 1,5 tỷ đồng.

- Buộc bị cáo Trịnh Xuân Thanh phải bồi hoàn cho PVC số tiền còn chiếm đoạt là 2 tỷ đồng.

- Buộc bị cáo Nguyễn Anh Minh phải bồi hoàn tiếp cho PVC số tiền còn chiếm đoạt chưa khắc phục là 88.240.000đ ; Bùi Mạnh Hiển 100.000.000đ.

- Đề nghị tiếp tục duy trì lệnh kê biên tài sản của Cơ quan An ninh điều tra, Bộ công an để đảm bảo cho việc thi hành án: Biệt thự số AD02-16 khu đô thị sinh thái Vinhomes Riverside, Căn hộ số 15F05, The Costa 32-34 Trần Phú, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, xe ôtô Mazda CX5 màu trắng, biển kiểm soát 30A-970.97 đã giao cho Trịnh Hùng Cường (con trai bị cáo Trịnh Xuân Thanh) bảo quản và phong tỏa tài khoản, sổ tiết kiệm của vợ, chồng Trịnh Xuân Thanh, Trần Dương Nga cùng 02 con trai (Trịnh Hùng Cường, Trịnh Hùng Phương); phong tỏa chứng khoán do Trịnh Xuân Thanh và Trần Dương Nga (vợ bị can Trịnh Xuân Thanh), không cho chuyển nhượng.

Đối với số tiền 1.198.332.407 đồng do Quỳnh và Hoa đã nộp thuế cho Nhà nước trên cơ sở các hợp đồng khống để tham ô tổng số tiền là 13.066.262.471 đồng, kiến nghị với cơ quan Thuế hoàn lại cho PVC.

Nhóm PV