TAND TP Hà Nội đưa vụ án Buôn lậu thịt trâu đông lạnh, làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức và mua bán trái phép hóa đơn, xảy ra tại Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thương mại và Dịch vụ Tân Đại Dương (viết tắt là Công ty Tân Đại Dương) ra xét xử.
Khép lại phiên tòa sơ thẩm, TAND TP Hà Nội quyết định tuyên phạt bị cáo Đoàn Mạnh Dương (SN 1984, Giám đốc Công ty Tân Đại Dương) tổng cộng 17 năm tù về các tội “Buôn lậu”, “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và “Mua bán trái phép hóa đơn”.
Liên quan đến vụ án, bị cáo Đỗ Hải Phong (SN 1984, Giám đốc Công ty TNHH Đầu tư Vân Đồn - viết tắt là Công ty Vân Đồn) bị tuyên phạt 12 năm tù về tội “Buôn lậu” và “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”; bị cáo Nguyễn Hữu Chỉnh (SN 1960, công chức Chi cục Hải quan Bắc Hà Nội) bị tuyên phạt 36 tháng tù (cho hưởng án treo); Phạm Quang Thành (SN 1982, công chức Hải quan Chi cục Hải quan Cửa khẩu Sân bay quốc tế Nội Bài) bị tuyên phạt 24 tháng tù (cho hưởng án treo) cùng về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”;
Cũng liên quan đến vụ án, bị cáo Nguyễn Thu Hằng (SN 1978, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại xuất nhập khẩu và du lịch Hà Nguyên) bị tuyên phạt 24 tháng tù; bị cáo Nguyễn Quốc Dũng (SN 1970, Giám đốc Công ty TNHH Đầu tư và thương mại Minh Khánh) bị tuyên phạt 18 tháng tù cùng về tội “Mua bán trái phép hóa đơn”.
|
|
Phiên tòa xét xử nhóm giám đốc buôn lậu thịt trâu, làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức và mua bán trái phép hóa đơn. |
Theo Cáo trạng truy tố, khoảng giữa năm 2022, Cục Điều tra chống buôn lậu, Tổng cục Hải quan chuyển thông tin và hồ sơ vi phạm có dấu hiệu tội phạm liên quan đến Công ty Tân Đại Dương tới Cơ quan điều tra.
Kết quả điều tra xác định, bị cáo Đoàn Mạnh Dương và Đỗ Hải Phong có hành vi buôn lậu 81 lô hàng, khối lượng hơn 2.356 tấn thịt trâu đông lạnh, vật phạm pháp trị giá hơn 10,4 triệu USD (tương đương hơn 224 tỉ đồng). Hành vi trên khiến Nhà nước thất thoát số tiền thuế hơn 16,5 tỉ đồng.
Cũng theo cáo trạng, năm 2009, Dương thành lập Công ty Tân Đại Dương để nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài về phân phối trong nước. Cùng năm 2009, Phong lập Công ty Vân Đồn để hỗ trợ hoạt động kinh doanh của Công ty Tân Đại Dương.
Ban đầu, Công ty Tân Đại Dương nhập khẩu máy vi tính, gỗ công nghiệp, bò sống nguyên… Sau đó, từ cuối năm 2019, công ty này nhập khẩu thịt trâu đông lạnh từ Công ty Allanasons (Ấn Độ) để bán cho các đại lý trong nước.
Để trốn thuế, các bị cáo khai báo hải quan không đúng tên mã hàng, chuyển từ thịt “nạc, thăn, đùi bắp” thành loại thịt “vụn, rìa, gân”; khai giảm giá trị các lô hàng (chỉ bằng 1/2 giá trị thực tế).
Cáo trạng thể hiện, Dương sử dụng Công ty Tân Đại Dương thanh toán bằng thư tín dụng L/C tiền thịt trâu đông lạnh cho đối tác theo giá trị khai báo hải quan. Còn số tiền chênh lệch bị thiếu sẽ được thanh toán bằng cách sử dụng pháp nhân Công ty Vân Đồn dùng hồ sơ, chứng từ nhập khẩu giả hoặc thông qua dịch vụ chuyển tiền của các công ty khác (đây là các công ty không xác định được thông tin đăng ký kinh doanh, địa chỉ kinh doanh).
Với phương thức trên, từ ngày 26/12/2013 đến ngày 26/7/2017, Công ty Tân Đại Dương mở 106 tờ khai nhập khẩu thịt trâu đông lạnh tại các Chi cục Hải quan, gồm: Chi cục Hải quan Bắc Hà Nội (68 tờ khai), 4 Chi cục Hải quan thuộc Cục Hải quan TP Hải Phòng (34 tờ khai) và Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh (4 tờ khai).
Kết quả điều tra làm rõ, trong tổng số 106 lô hàng mà Công ty Tân Đại Dương mở tờ khai hải quan, bị cáo Dương đã buôn lậu 81 lô hàng thịt trâu với trọng lượng hơn 2.356 tấn. Còn 25 lô hàng không đủ thông tin, dữ liệu để đối chiếu. 81 lô hàng buôn lậu có giá trị khai báo hải quan là hơn 4,9 triệu USD; Công ty Tân Đại Dương thanh toán hơn 10,7 triệu USD, chênh lệch hơn 5,4 triệu USD. Số tiền Nhà nước thất thoát thuế là hơn 16,5 tỉ đồng. Trong đó, Đỗ Hải Phong (Giám đốc Công ty Vân Đồn) phải chịu trách nhiệm với 55 lô hàng, liên đới gây thiệt hại hơn 11 tỉ đồng tiền thuế.
Cáo trạng cũng thể hiện, bị cáo Đoàn Mạnh Dương làm giả một số tài liệu chuyển tiền quốc tế để thanh toán nốt tiền cho đối tác. Từ ngày 27/12/2013 đến ngày 15/9/2015, Dương chỉ đạo Phong làm giả 34 tờ khai hải quan bằng cách chỉnh sửa lại số liệu, nội dung, điền thông tin công ty xuất, nhập khẩu, số lượng, đơn hàng…
Cáo trạng xác định, Công ty Tân Đại Dương đã mở 68 tờ khai tại Chi cục Hải quan Bắc Hà Nội thuộc Cục Hải quan Hà Nội, trong đó có 5 tờ khai của 5 lô hàng được hệ thống VNACCS/VCIS của cơ quan Hải quan phân mã luồng “3D” - luồng đỏ, phải kiểm tra thực tế.
Trong khi ấy, các bị cáo Nguyễn Hữu Chỉnh, Phạm Quang Thành là công chức kiểm hóa (Đội Nghiệp vụ, Chi cục Hải quan Bắc Hà Nội) được phân công trực tiếp kiểm tra hàng hóa. Căn cứ hồ sơ kiểm tra đối chiếu với kết quả ủy thác tư pháp xác định, mỗi lô hàng đều được đóng vào một container chứa các kiện hàng, bề ngoài đều ghi mã thịt và loại thịt; 5 lô hàng trên đều có thịt vụn dưới 10%, có 2 lô hàng 100% là thịt thăn, nạc, mông.
Quá trình kiểm tra thực tế, 2 bị cáo Chỉnh và Thành không kiểm tra đủ mẫu 10%, không thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục để xác định cụ thể mã hàng, loại thịt. Hành vi thiếu trách nhiệm của 2 bị cáo Nguyễn Hữu Chỉnh và Phạm Quang Thành đã gây thiệt hại cho Nhà nước hơn 1 tỉ đồng tiền thuế nhập khẩu.
Cơ quan tiến hành tố tụng cũng làm rõ, từ năm 2016 đến 2017, bị cáo Dương chỉ đạo nhân viên hoặc trực tiếp liên hệ với Công ty Hà Nguyên, Công ty Minh Khánh… để bán ra và mua vào các hóa đơn GTGT khống, phục vụ việc giải ngân, vay vốn của Công ty Tân Đại Dương.
Cụ thể, Công ty Hà Nguyên do Nguyễn Thu Hằng làm giám đốc mua khống 17 hóa đơn và bán lại cho Công ty Tân Đại Dương số tiền ghi 66,4 tỉ đồng. Công ty Minh Khánh do Nguyễn Quốc Dũng làm giám đốc mua khống 13 hóa đơn và bán lại cho Công ty Tân Đại Dương với số tiền ghi hơn 26 tỉ đồng… Với hành vi này, Hằng hưởng lợi hơn 200 triệu đồng, Dũng hưởng lợi hơn 127 triệu đồng, còn Dương mua bán trái phép tổng cộng 106 tờ hóa đơn.
Các cơ quan tiến hành tố tụng xác định, hành vi của Dương, Phong, Hằng, Dũng đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước quy định về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán hàng hóa qua biên giới; xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước trong việc quản lý hóa đơn.