Theo Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm 2017 vừa được Kiểm toán Nhà nước (KTNN) gửi đến Quốc hội, từ kết quả kiểm toán 17 dự án đầu tư xây dựng theo hình thức hợp đồng BT trong năm 2017, KTNN chỉ rõ các dự án BT thực chất là sử dụng nguồn lực NSNN nhưng không quy định phải là dự án cần thiết, thực sự cấp bách là chưa phù hợp với các quy định hiện hành.

Hầu hết các dự án BT đều lựa chọn nhà đầu tư theo hình thức chỉ định thầu làm giảm sự cạnh tranh và tiềm ẩn rủi ro chọn nhà đầu tư không đủ năng lực.

Việc thanh toán cho nhà đầu tư theo hình thức giao đất đã giải phóng mặt bằng có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê không thông qua hình thức đấu giá là chưa phù hợp quy định của Luật Đất đai năm 2013 và là kẽ hở dẫn đến thất thoát ngân sách.

Quy định về thời điểm giao đất để thanh toán dự án BT và thời điểm giao dự án BT (theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Thông tư số 183/2015/TT-BTC ngày 17/11/2015 và Điều 3, Quyết định số 23/2015/QĐ-TTg ngày 26/6/2015) còn bất cập, không rõ ràng dẫn đến việc thanh toán dự án BT bằng quỹ đất không đảm bảo nguyên tắc ngang giá.

Việc thanh toán trước cho nhà đầu tư trong khi nhà đầu tư chưa phải xuất hóa đơn GTGT do công trình chưa hoàn thành thực chất là thanh toán trước tiền thuế GTGT cho nhà đầu tư tại thời điểm chưa phát sinh là một điểm bất hợp lý, tạo ra việc chiếm dụng vốn từ NSNN.

leftcenterrightdel
 Đường nối từ Cảng Hàng không Thọ Xuân đi Khu kinh tế Nghi Sơn. Ảnh: Báo Giao thông

Vốn đầu tư của các dự án BT chủ yếu là vốn vay (khoảng 85%) và được tính lãi, với lãi suất tối đa huy động bằng 1,3 lần lãi suất TPCP, dẫn đến thực chất gần như toàn bộ dự án là vốn của Nhà nước hoặc là vốn của Nhà nước đi vay với mức lãi suất cao hơn lãi suất Nhà nước huy động để đầu tư thực hiện dự án. Điều này cho thấy, việc thực hiện dự án BT không thực sự giảm gánh nặng cho NSNN.

Bên cạnh đó, chưa có quy định về thời điểm nhà đầu tư phải góp đủ số vốn chủ sở hữu dẫn đến nhà đầu tư không bắt buộc phải góp đủ vốn chủ sở hữu theo tỷ lệ tối thiểu tại mọi thời điểm nhằm tiết kiệm chi phí lãi vay trong thời gian xây dựng. Đồng thời chưa có văn bản quy định cụ thể về tỷ suất lợi nhuận của nhà đầu tư nên có chênh lệch lớn giữa các hợp đồng (cao nhất 14%, thấp nhất 10%).

Nhiều dự án giao cho Nhà đầu tư thực hiện từ khâu thẩm định, phê duyệt dự án, thiết kế dự toán và tự lựa chọn các đơn vị tư vấn thiết kế, thi công, giám sát dẫn đến có thể không đảm bảo tính khách quan; công tác quản lý, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước chưa được thực hiện thường xuyên, đầy đủ theo chức năng, nhiệm vụ được giao dẫn đến để xảy ra sai sót ở tất cả các khâu, gây thất thoát trong quá trình thi công thực hiện dự án.

Qua kiểm toán cho thấy các dự án BT mắc một số lỗi cụ thể như sau:

Nhà đầu tư góp vốn chủ sở hữu chưa đầy đủ và đúng hạn như tiến độ đã cam kết trong hợp đồng: Dự án phân kỳ đầu tư giai đoạn 1 đường giao thông từ Cảng hàng không Thọ Xuân đi khu kinh tế Nghi Sơn số vốn góp thiếu so với cam kết 128,82 tỷ đồng.

Ký hợp đồng nhưng không quy định phần vốn chủ sở hữu của chủ đầu tư: Tỉnh Hà Nam: Dự án Sân vận động Đồng Văn và Hạ tầng khu đất xung quanh; Dự án Hạ tầng kỹ thuật khu hồ A1 (giáp bệnh viện Lao) và tuyến đường nối từ đường Trần Hưng Đạo với đường 42m thuộc Quy hoạch khu đô thị Liêm Chính, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.

Xác định lãi suất vốn vay còn sai sót, thiếu cơ sở: Dự án phân kỳ đầu tư giai đoạn 1 đường giao thông từ Cảng hàng không Thọ Xuân đi khu kinh tế Nghi Sơn; Dự án công trình nút giao thông khác mức tại nút giao thông ngã ba Huế - thành phố Đà Nẵng.

Ký kết hình thức hợp đồng không phù hợp: Dự án Hạ tầng kỹ thuật khu hồ A1 (giáp bệnh viện Lao) và tuyến đường nối từ đường Trần Hưng Đạo với đường 42m thuộc Quy hoạch khu đô thị Liêm Chính, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (sau đó các bên đã điều chỉnh lại hình thức hợp đồng).

Quy định không rõ ràng thời điểm thực hiện nghĩa vụ với NSNN làm tăng chi phí lãi vay trong phương án tài chính: Dự án Đầu tư đường giao thông bao quanh khu tưởng niệm danh nhân Chu Văn An, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội (KTNN xác định chi phí lãi vay giảm 131,43 tỷ đồng).

Xác định tổng vốn đầu tư trong phương án tài chính chưa hợp lý: Dự án phân kỳ đầu tư giai đoạn 1 đường giao thông từ Cảng hàng không Thọ Xuân đi khu kinh tế Nghi Sơn: PATC của Dự án chưa dự tính đến nguồn hoàn thuế GTGT (tính đến thời điểm 30/9/2017 là 177,2 tỷ đồng), nếu thực hiện hoàn thuế thì giảm được số lãi vay tương ứng 12,2 tỷ đồng.

Một số chi phí lập cao so với thực tế và quy định: Thành phố Hà Nội: Dự án Đầu tư đường giao thông bao quanh khu tưởng niệm danh nhân Chu Văn An, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội (TMĐT tạm tính không có căn cứ 36,79 tỷ đồng); Dự án xây dựng Khu công viên và Hồ điều hòa khu phía Bắc và phần mở rộng phía Nam nghĩa trang Mai Dịch (TMĐT được duyệt cao hơn so với tổng dự toán được duyệt 51,71 tỷ đồng). Tỉnh Hà Nam: Dự án đầu tư xây dựng Hạ tầng kỹ thuật khu hồ A1 (giáp bệnh viện Lao) và tuyến đường nối từ đường Trần Hưng Đạo với đường 42m thuộc Quy hoạch khu đô thị Liêm Chính, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (xác định chi phí đền bù GPMB chưa chính xác, KTNN xác định chi phí đền bù GPMB trong giá trị hợp đồng BT giảm 11,3 tỷ đồng).

Xác định tổng mức đầu tư không chính xác: Dự án công trình nút giao thông khác mức tại nút giao thông ngã ba Huế - thành phố Đà Nẵng; Dự án đường Kỳ Đồng kéo dài, thành phố Thái Bình đoạn từ đường Trần Thủ Độ đến Quốc lộ 10; Dự án Đầu tư xây dựng công trình khu nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp tại khu nhà 5 tầng, tổ 39. 40, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình; Dự án đầu tư xây dựng công trình tuyến đường bộ nối hai tỉnh Thái Bình, Hà Nam với đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình.

Lập dự án, phê duyệt thiết kế dự toán của hầu hết các dựa án còn sai sót về khối lượng, định mức đơn giá.

Qua kiểm toán tại 30 dự án BT từ trước đến nay, KTNN đã kiến nghị xử lý tài chính 4.515 tỷ đồng, trong đó có dự án tỷ lệ xử lý tài chính lên đến 27% tổng giá trị dự án được kiểm toán. 

Từ kết quả kiểm toán năm 2017, KTNN đã tổng hợp các kiến nghị gửi tới Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, Cơ quan Trung ương, địa phương, đơn vị trong Phụ lục số 10. Xem chi tiết tại đây: ktnn-phu-luc-so-10.pdf

Thế Đức