leftcenterrightdel
 Quang cảnh phiên làm việc của Quốc hội sáng 6/6 (ảnh: VPQH cung cấp).

Nhiều tín hiệu khả quan

Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong những tháng đầu năm 2023, tình hình kinh tế, xã hội, chính trị các nước trên thế giới có diễn biến nhanh, phức tạp. Thị trường lao động các nước đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, rủi ro tác động đến nhiều ngành, lĩnh vực...

Trong 4 tháng đầu năm, cả nước có 49,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số lao động đăng ký gần 331,4 nghìn người (tăng 0,6% số doanh nghiệp, giảm 4,8% số lao động so với cùng kỳ năm trước). Số doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 49,9 nghìn doanh nghiệp (bằng đúng số thành lập mới), tăng 21,8% so với cùng kỳ năm trước.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên quý I năm 2023 đạt 52,2 triệu người (tăng 88,7 nghìn người so với quý trước và tăng hơn 1 triệu người so với cùng kỳ năm trước). Tuy nhiên, tốc độ tăng lực lượng lao động có dấu hiệu chậm lại khi tốc độ tăng quý I năm 2023 so với quý trước chỉ là 0,2% (quý I/2022 là 0,9%; quý IV/2022 là 0,5%).

leftcenterrightdel
 Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung trả lời chất vấn trước Quốc hội sáng 6/6 (ảnh: VPQH cung cấp).

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý I năm 2023 là 68,9% (tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước). Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khu vực thành thị là 65,2%, khu vực nông thôn là 71,3%;

Lao động có việc làm tiếp tục tăng: Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý I năm 2023 là 51,1 triệu người (tăng 1,1 triệu người so với cùng kỳ năm trước và tăng 677,9 nghìn người so với năm 2019).

Tuy nhiên, tại một số địa phương lao động có việc làm có xu hướng giảm so với quý IV năm 2022 như Thành phố Hồ Chí Minh giảm 0,4%, Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 2,6%, Bắc Ninh giảm 0,9%, Bắc Giang giảm 4,5%, Thái Nguyên giảm 2,2%.

Số lao động đi làm việc ở nước ngoài tăng nhanh: Trong 4 tháng đầu năm 2023 số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài là 49.880 lao động, tăng 3,44 lần so với cùng kỳ năm 2022 (năm 2022: 14.489 lao động).

Thu nhập của người lao động được cải thiện: Thu nhập bình quân của người lao động quý I năm 2023 là 7,0 triệu đồng (tăng 640 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước).

Vẫn còn nhiều khó khăn

Trong bối cảnh kinh tế - xã hội những tháng đầu năm 2023 có chỉ số phát triển kinh tế không được thuận lợi nhưng thị trường lao động vẫn có sự phát triển nhẹ là nhờ sự tăng trưởng ở ngành thương mại - dịch vụ; tính linh hoạt của người lao động về việc làm cao, lao động làm việc trong khu vực phi chính thức chiếm tỷ trọng lớn (đặc tính về lao động việc làm Việt Nam với 64,6% lao động có việc làm phi chính thức).

Tuy nhiên, diễn biến cuối tháng 4 và tháng 5 về sản xuất kinh doanh kéo theo vấn đề lao động, việc làm có diễn biến khó khăn hơn, cụ thể:

Về doanh nghiệp: Số doanh nghiệp gặp khó khăn phải cắt giảm lao động là 8.644 doanh nghiệp (chiếm 1% tổng số doanh nghiệp), trong đó: 27,4% là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; 72,18% doanh nghiệp ngoài nhà nước; 0,39% doanh nghiệp nhà nước; 66,75% doanh nghiệp thuộc vùng Đông Nam Bộ (chiếm 1,63% tổng số doanh nghiệp của vùng); 12,4% doanh nghiệp thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng (chiếm 0,4% tổng số doanh nghiệp của vùng); 7,75% doanh nghiệp thuộc vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung (chiếm 0,6% tổng số doanh nghiệp của vùng); còn lại rải rác ở các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên và miền núi phía Bắc.

Doanh nghiệp gặp khó khăn là những doanh nghiệp thuộc ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ, sản xuất, lắp ráp linh kiện điện tử,…

leftcenterrightdel
Các vị đại biểu tham dự phiên làm việc của Quốc hội sáng 6/6 (ảnh: VPQH cung cấp).

Về lao động: Số lao động trong doanh nghiệp bị ảnh hưởng việc làm là 509.903 người (khoảng 3,4% tổng số lao động trong doanh nghiệp), trong đó: Số lao động thôi việc, mất việc làm là 279.409 người (chiếm 54,79% lao động bị ảnh hưởng); trong đó lao động ngành dệt may là 68.782 người, da giày 31.653 người, sản xuất linh kiện và sản phẩm điện tử là 45.075 người.

Số lao động thôi việc, mất việc tập trung ở các tỉnh có khu công nghiệp, khu kinh tế lớn như Bình Dương (71.590 người), Đồng Nai (32.450 người), Thành phố Hồ Chí Minh (44.890 người), Bắc Giang (27.500 người), Bắc Ninh (13.990 người), Hải Dương (16.020 người), Hà Nội (46.860 người).

Số lao động giảm giờ làm là 195.039 người (chiếm 38,25% lao động bị ảnh hưởng); trong đó lao động ngành dệt may là 66.641 người, ngành da giày là 66.133 người, ngành sản xuất linh kiện và sản phẩm điện tử là 24.848 người, ngành chế biến thủy, hải sản là 5.939 người, ngành chế biến gỗ và sản xuất các sản phẩm từ gỗ là 5.450 người.

Số lao động bị ngừng việc, nghỉ việc không lương là 17.003 người (chiếm 3,33% lao động bị ảnh hưởng); trong đó lao động ngành dệt may là 4.938 người, ngành sản xuất linh kiện và sản phẩm điện tử là 2.243 người, ngành chế biến thủy, hải sản là 3.138 người, ngành chế biến gỗ và sản xuất các sản phẩm từ gỗ là 2.232 người.

Số lao động tạm hoãn hợp đồng lao động là 8.346 người (chiếm 1,64% lao động bị ảnh hưởng), trong đó nhiều nhất là lao động ngành dệt may là 3.826 người...

Đã hỗ trợ cho trên 1,41 triệu lượt người sử dụng lao động và trên 68,43 triệu lượt người lao động, người dân

Về các chính sách đã và đang thực hiện hỗ trợ người lao động, doanh nghiệp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tham mưu Đảng, Nhà nước ban hành 4 gói chính sách chính trong giai đoạn 2020 - 2022 để hỗ trợ người dân, người lao động và doanh nghiệp (theo Nghị quyết số 42/NQ-CP, Nghị quyết số 68/NQ-CP, Nghị quyết số 116/NQ-CP và Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg).

leftcenterrightdel
  Các vị đại biểu tham dự phiên làm việc của Quốc hội sáng 6/6 (ảnh: VPQH cung cấp).

Theo đó, Trung ương và các địa phương đã hỗ trợ cho trên 1,41 triệu lượt người sử dụng lao động và trên 68,43 triệu lượt người lao động, người dân với tổng kinh phí trên 120 nghìn tỉ đồng.

Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ khác vẫn đang được triển khai theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về lao động như: Chính sách đối với người lao động thôi việc, mất việc làm; Tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí; Hỗ trợ học nghề; Chính sách tín dụng ưu đãi tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm; Chính sách hỗ trợ đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động; Chính sách tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất...

Về giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc tạo việc làm cho người lao động hiện nay, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho biết, sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động của các định chế trung gian của thị trường, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động.

Bên cạnh đó, sẽ thúc đẩy tạo việc làm bền vững, sử dụng lao động hiệu quả thông qua các chương trình, đề án, chính sách tín dụng hỗ trợ tạo việc làm, tham gia thị trường lao động; Triển khai các giải pháp đẩy mạnh công tác dự báo nhu cầu sử dụng lao động, nhu cầu đào tạo nghề nghiệp của doanh nghiệp về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, trình độ của lao động trong các doanh nghiệp.

Cùng với đó, thực hiện các giải pháp để thu hút đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh. Các giải pháp cần tập trung vào hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường, tìm kiếm đơn hàng mới, giảm chi phí sản xuất, kinh doanh thông qua việc giảm lãi suất vay, hỗ trợ giảm thuế, giảm các khoản phí, lệ phí phải đóng; Thực hiện các giải pháp để hỗ trợ tạo việc làm, kết nối cung - cầu lao động và đảm bảo quyền lợi cho người lao động...

Vũ Cảnh