Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng (Viện cấp cao 2) nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về "Chia tài sản sau ly hôn" giữa nguyên đơn là ông V.V.C với bị đơn là bà N.T.K.Ch đã được xét xử tại Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2022/HNGĐ-ST ngày 28/9/2022 của TAND tỉnh BĐ có vi phạm, do đó Viện cấp cao 2 vừa ban hành Thông báo số 16/TB-VKS-DS rút kinh nghiệm trong giải quyết vụ án này.

Nội dung vụ án thể hiện, ông C và bà Ch là vợ chồng, đăng ký kết hôn năm 2000 tại tỉnh BĐ. Năm 2017, ông C và bà Ch đã ly hôn, nhưng chưa chia tài sản chung. Ông C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung gồm: Nhà đất tại thửa số 110, tờ bản đồ số 13, ở 56 đường Nguyễn Tất Thành thuộc tổ 42, khu vực 6, phường Lê Hồng Phong, thành phố QN, diện tích 51,17m2 đã được chỉnh lý biến động ngày 29/3/2013 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất do UBND thành phố QN cấp ngày 21/2/2012, đứng tên bà Ch. 

Ngày 4/12/2015, UBND thành phố QN bán thêm 9,1m2 cho ông C và bà Ch theo Quyết định số 8471/QĐ-UBND ngày 4/12/2015, ông bà đã nộp tiền nhưng chưa chỉnh lý biến động trên GCNQSDĐ. Ông C yêu cầu được nhận nhà, đất và thanh toán lại giá trị cho bà Ch. Số tiền mặt gần 961 triệu đồng đứng tên bà Ch có được do ông bà bán 1 căn nhà tại thành phố QN có được, sau đó, bà Ch tự ý rút toàn bộ số tiền này, ông không biết. Ông yêu cầu bà Ch thanh toán lại cho ông 475 triệu đồng. Đối với những khoản nợ của bà Ch, ông không biết nên không chịu trách nhiệm.

leftcenterrightdel
 Kiểm sát viên trình bày quan điểm của Viện kiểm sát tại một phiên toà dân sự. (Ảnh minh hoạ)

Bị đơn là bà Ch cho rằng, ngôi nhà số 56 gắn liền với thửa đất 110 nêu trên ông C chỉ góp 400 triệu đồng, còn lại là tiền của bà Ch và gia đình bà đóng góp. Nhà đất là tài sản riêng của bà nên bà không đồng ý chia. Bà chỉ đồng ý trả cho ông C số tiền góp và tiền lãi tổng cộng là 700 triệu đồng.

Về số tiền gửi tại Ngân hàng, hai ông bà sau khi mua đất, trả nợ thì số tiền còn lại đã chi tiêu chung hết trong năm 2016 - 2017 nên không còn để chia. Về nợ chung, bà Ch đề nghị Toà án giải quyết trả hết các khoản nợ chung sau đó mới chia tài sản.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2022/HNGĐ-ST ngày 28/9/2022, TAND tỉnh BĐ, quyết định: Bà Ch được sở hữu, sử dụng nhà và tài sản khác gắn liền với nhà đất số 56 thuộc thửa đất số 110, diện tích 51,17m2 nêu trên. Bà Ch có nghĩa vụ thanh toán cho ông C số tiền hơn 5,1 tỉ đồng.

Bà Ch có nghĩa vụ thanh toán cho một số người, trong đó có bà L.T.X 566 triệu đồng. Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí theo quy định.

Ngày 13/10/2022, đại diện theo uỷ quyền của bị đơn kháng cáo một phần bản án dân sự sơ thẩm yêu cầu xem xét các khoản nợ chung, tính toán công sức, thời gian bảo quản ngôi nhà tại số 56 Nguyễn Tất Thành. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, bà L.T.X kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện cấp cao 2 đề nghị: Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; chấp nhận 1 phần kháng cáo của bị đơn bà Ch và 1 phần kháng cáo của người liên quan bà L.T.X; sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2022/HNGĐ-ST ngày 28/9/2022 của TAND tỉnh B.Đ theo hướng tính công sức cho bà L.T.X và sửa về án phí theo quy định.

Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2023/DS-PT ngày 21/6/2023 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng, quyết định: Giao cho bà Ch được quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với nhà đất số 56 thuộc thửa đất số 110, tờ bản số 13, diện tích 51,17m2 nêu trên. Bà Ch có nghĩa vụ thanh toán giá trị công sức cho bà L.T.X hơn 1,3 tỉ đồng; thanh toán cho ông C 4,5 tỉ đồng; cho bà L.T.X 566 triệu đồng.

Theo Viện cấp cao 2, trong vụ án trên có những nội dung cần rút kinh nghiệm. Cụ thể, đối với vụ án này, Toà án cấp sơ thẩm đã xác định tài sản chung, nợ chung của ông C, bà Ch và đã tiến hành chia tài sản chung, nợ chung theo hướng giao nhà đất cho bà Ch và buộc bà Ch trả lại giá trị nhà đất cho ông C và buộc bà Ch phải trả nợ riêng cho những người liên quan trong vụ án là đúng quy định.

Tuy nhiên, thời điểm mua nhà đất số 56 Nguyễn Tất Thành, bà Ch và ông C đang sinh sống tại Nhật. Sau khi mua nhà, đất ông C và bà Ch đã giao nhà cho bà L.T.X quản lý, gìn giữ, trông coi nên bà X đã có công sức trong việc quản lý, giữ gìn làm tăng giá trị tài sản cho ông C và bà Ch, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét đến công sức đóng góp, giữ gìn, bảo quản tài sản cho bà X là không đúng theo Án lệ số 02/2016 được ban hành kèm Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 6/4/2016 của Chánh án TAND tối cao.

Cũng theo Viện cấp cao 2, Bản án dân sự phúc thẩm của TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã sửa một phần bản án sơ thẩm tính công sức cho bà L.T.X với số tiền hơn 1,3 tỉ đồng (tương ứng 10% giá trị tài sản) và sửa về án phí theo quy định.

P.V