Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2019/DSST ngày 15/3/2019, TAND huyện Cư M’gar đã tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Hiển. Tuyên bố hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa anh Nguyễn Xuân Thuận với vợ chồng bà Quách Thị Vấn lập ngày 6/10/2006. Buộc anh Thuận trả lại số tiền 65 triệu đồng cho vợ chồng bà Vấn và bồi thường trị giá tài sản cây trồng phát sinh sau khi chuyển nhượng và tiền công chăm sóc cây cho vợ chồng bà Vấn hơn 139,4 triệu đồng, tổng cộng là hơn 204,4 triệu đồng.

Mặt khác, buộc vợ chồng bà Vấn trả lại cho bà Hiển tổng diện tích đất rẫy cà phê, tiêu là 9.073m2 của 3 thửa số 78, 79, 80. Buộc vợ chồng bà Vấn trả cho bà Hiển giấy CNQSDĐ của thửa đất số 79. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện độc lập của vợ chồng bà Vấn.  

Qua nghiên cứu, VKSND tỉnh Đắk Lắk xét thấy, bản án dân sự sơ thẩm nói trên của TAND huyện Cư M’gar có nhiều vi phạm. Cụ thể:

Về phạm vi khởi kiện: Tại đơn khởi kiện, bà Hiển yêu cầu Tòa án giải quyết các nội dung: Hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ lập giữa vợ chồng bà Vấn và anh Thuận (con bà Hiển), buộc vợ chồng bà Vấn trả lại toàn bộ diện tích 4.450 m2 và tài sản trên đất tại thửa số 79 mang tên hộ ông Nhuận (bố anh Thuận); Trả lại diện tích 4.400m2 đất và tài sản trên đất đang được kê khai làm thủ tục cấp giấy CNQSDĐ tại thửa số 80; Yêu cầu vợ chồng bà Vấn trả lại giấy CNQSDĐ bản gốc của thửa số 79. Ngày 3/7/2017, tại thông báo thụ lý vụ án, Tòa án cũng xác định nội dung trong đơn khởi kiện chỉ yêu cầu giải quyết đối với thửa đất số 79, 80 (không có thửa 78).... 

Tuy nhiên, án sơ thẩm tuyên xử: Buộc vợ chồng bà Vấn trả lại cho bà Hiển tổng diện tích đất rẫy là 9.073,6m2 của 3 thửa: số 78, 79, 80 là vượt quá phạm vi khởi kiện, vi phạm Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự. 

leftcenterrightdel
VKSND tỉnh Đắk Lắk xét thấy, bản án dân sự sơ thẩm của TAND huyện Cư M’gar có nhiều vi phạm. 

Về việc thu thập chứng cứ: Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, vợ chồng bà Vấn cho rằng chỉ sang nhượng thửa đất số 79 của anh Thuận, thửa đất số 78 và 80 là do bị đơn tự khai hoang vào năm 2006. Còn bà Hiển cho rằng, thửa đất số 80 đang được bà kê khai xin cấp giấy CNQSDĐ nhưng cấp sơ thẩm không thu thập hồ sơ xin đăng ký. Đối với thửa đất số 78 cũng chưa được cấp sơ thẩm xác minh nguồn gốc tại cơ quan có thẩm quyền, như vậy là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ. 

Về việc giải quyết hậu quả pháp lý khi hợp đồng vô hiệu: Án sơ thẩm tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa anh Thuận và vợ chồng bà Vấn, buộc anh Thuận trả lại số tiền chuyển nhượng 65 triệu đồng cho vợ chồng bà Vấn và bồi thường trị giá tài sản cây trồng và chăm sóc kiến thiết hơn 139,4 triệu đồng, tổng cộng là hơn 204,4 triệu đồng là không đúng.

Bởi lẽ, căn cứ theo giấy sang nhượng thì anh Thuận chỉ làm hợp đồng chuyển nhượng cho vợ chồng bà Vấn thửa đất 79, không chuyển nhượng thửa 78 và 80. Do đó, Tòa án chỉ giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu đối với thửa 79. Căn cứ biên bản định giá xác định tổng giá trị đất và tài sản trên đất của thửa 79 thì anh Thuận phải trả cho vợ chồng bà Vấn là hơn 131 triệu đồng. Đối với thửa đất số 78 và 80, nếu có căn cứ cho rằng hai thửa đất đó là của bà Hiển, buộc vợ chồng bà Vấn phải trả lại đất và tài sản trên đất thì bà Hiển phải có nghĩa vụ thanh toán lại cho bị đơn giá trị tài sản do bị đơn tạo lập trong quá trình quản lý, sử dụng. 

Ngoài ra, theo nhận định của VKS, Tòa án sơ thẩm còn để sót người tham gia tố tụng, tuyên không đúng về chi phí tố tụng, án phí sơ thẩm.... 

Trên cơ sở những đánh giá trên, mới đây, VKSND tỉnh Đắk Lắk đã có Quyết định số 383/QĐKNPT-VKS-DS kháng nghị phúc thẩm Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2019/DSST ngày 15/3/2019 của TAND huyện Cư M’gar; đề nghị TAND tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm theo hướng hủy án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. 

Chính Cương