Trong vụ tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy GCNQSDĐ (tại tổ 3, phường Nghĩa Trung, TX. Gia Nghĩa) giữa nguyên đơn – bà Phạm Thị Huệ với bị đơn – ông Vũ Mạnh Cường, bà Trần Thị Kim Tuyết cùng một số người khác, VKSND tỉnh Đắk Nông xét thấy, có căn cứ để xác định bà Huệ là người canh tác, sử dụng diện tích đất hiện đang tranh chấp ổn định liên tục từ năm 1993 đến nay.

Cụ thể, bà Huệ khai diện tích đất đang tranh chấp do bà khai hoang năm 1993, làm nhà tạm năm 1993, năm 1994 làm lại nhà lớn hơn và trồng cây trên đất từ năm 1994. Ông Cường và bà Tuyết công nhận việc bà Huệ làm nhà và trồng cây trên đất từ năm 1993. Những người làm chứng cũng xác định từ năm 1993, bà Huệ đã dọn đất và làm nhà trên diện tích đất hiện tranh chấp.

Hơn nữa, năm 2012, UBND TX. Gia Nghĩa thu hồi đất để làm đường cũng xác định bà Huệ là người sử dụng đất bị thu hồi và phê duyệt phương án bồi thường cho bà Huệ. 

Việc ông Cường cho rằng diện tích đất đang tranh chấp do ông cho bà Huệ mượn bằng miệng, không làm giấy tờ, không có người chứng kiến. Lời trình bày của ông Cường không được bà Huệ công nhận. Hơn nữa, quá trình bà Huệ nhiều lần làm nhà từ năm 1993 đến nay ông Cường cũng không hề cản trở. Như vậy, ông Cường không có chứng cứ gì chứng minh ông đã cho bà Huệ mượn đất. 

leftcenterrightdel
Một phiên tòa rút kinh nghiệm xét xử sơ thẩm vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất” tại TAND TX. Gia Nghĩa (Đắk Nông). Ảnh minh họa 

Bên cạnh đó, ông Cường cho rằng ông đã được cấp GCNQSDĐ từ năm 1989 theo Quyết định số 172/QĐ-UBND ngày 25/12/1989 của UBND huyện Đắk Nông. Tuy nhiên, theo Quyết định 172 này, ông Cường chỉ được xác nhận diện tích đất là 1.400m2 và chỉ có tứ cận mà không có kích thước tứ cận cụ thể. Như vậy, không có căn cứ để xác định diện tích đất tranh chấp là một phần diện tích trong Quyết định 172. Mặt khác, diện tích đất theo GCNQSDĐ cấp cho ông Cường và bà Tuyết năm 2009 là 6.051m2, diện tích này lớn hơn rất nhiều so với diện tích theo Quyết định 172.

Cũng theo VKSND tỉnh Đắk Nông, qua lời khai của nguyên đơn và bị đơn, người làm chứng, đều xác định bà Huệ là người đang trực tiếp sinh sống trên diện tích đất tranh chấp từ năm 1993. Nhưng UBND TX. Gia Nghĩa đã không tiến hành xác minh thực địa mà cấp GCNQSDĐ toàn bộ diện tích, bao gồm cả phần ông Cường và bà Tuyết không trực tiếp sử dụng là trái quy định.

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có cung cấp tờ bản đồ số 02. Theo tờ bản đồ thể hiện thửa đất 316 của ông Cường và bà Tuyết chỉ có diện tích 5.010m2. Tuy nhiên, đến năm 2009, UBND TX. Gia Nghĩa cấp giấy chứng nhận cho ông Cường và bà Tuyết thửa 316 có diện tích 6.051m2. Hơn nữa, hình thể thửa đất theo bản đồ giải thửa hoàn toàn khác so với trích lục theo GCNQSDĐ. Thế nhưng, Tòa án sơ thẩm không xem xét, không thu thập tờ bản đồ số 02 và xác minh làm rõ lý do có sự biến động về diện tích, hình thể giữa bản đồ giải thửa với GCNQSDĐ. Đây là thiếu sót nghiêm trọng trong việc thu thập và đánh giá chứng cứ của cấp sơ thẩm.

Từ những phân tích nêu trên nhận thấy, việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ dựa vào lời khai của bị đơn, lời khai của UBND TX. Gia Nghĩa để phán quyết mà không xem xét đánh giá lời trình bày của nguyên đơn và quá trình sử dụng đất của các bên đương sự đối chiếu với quy định Luật Đất đai năm 2003 và các hướng dẫn liên quan để giải quyết là phiến diện, thiếu khách quan, vi phạm nghiêm trọng quy định về thu thập và đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật.

Do đó, ngay sau khi nhận được bản án sơ thẩm, ngày 24/10/2018, VKSND tỉnh Đắk Nông đã ban hành Quyết định kháng nghị toàn bộ Bản án sơ thẩm số 12/2018/DSST của TAND TX. Gia Nghĩa, đề nghị TAND tỉnh xét xử phúc thẩm theo hướng hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho TAND TX. Gia Nghĩa giải quyết lại theo quy định.

Ngày 9/1/2019, TAND tỉnh Đắk Nông đã đưa vụ án ra xét xử, chấp nhận yêu cầu kháng nghị của VKSND tỉnh và kháng cáo của bà Huệ, tuyên hủy Bản án sơ thẩm số 12/2018/DSST ngày 26/9/2018 của TAND TX. Gia Nghĩa; chuyển hồ sơ vụ án cho TAND TX. Gia Nghĩa giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.

Chính Cương