Theo luật hình sự Việt Nam, việc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm phải tuân thủ các nguyên tắc có tính riêng biệt như sau:

- Nguyên tắc những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm, trên cơ sở hành vi tham gia thực hiện của mỗi người.

Trong đồng phạm, tội phạm được thực hiện là do sự hợp tác chung của tất cả những người cùng tham gia. Hành vi của mỗi người là bộ phận cần thiết trong hoạt động chung đó. Hậu quả của tội phạm là kết quả hoạt động chung của tất cả những người đồng phạm. Hơn nữa bản thân tội phạm cũng là thể thống nhất. Chúng ta không thể chia cắt tội phạm để buộc mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm về một phần của tội phạm. Theo nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam đã xác định: 

+ Tất cả những người đồng phạm đều bị  truy tố, xét xử về cùng một tội danh, theo cùng một điều luật, trong phạm vi những chế tài điều luật đó quy định. 

+ Những nguyên tắc chung về truy cứu trách nhiệm hình sự, về quyết định hình phạt, về thời hiệu mà luật định đối với loại tội phạm do đồng phạm thực hiện được áp dụng cho tất cả những người đồng phạm. 

- Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về cùng thực hiện vụ đồng phạm.

Trong vụ đồng phạm, mỗi người đồng phạm tuy phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm mà họ cùng thực hiện nhưng do trách nhiệm hình sự là trách nhiệm cá nhân nên việc xác định trách nhiệm hình sự cho mỗi người đồng phạm vẫn phải dựa trên cơ sở hành vi cụ thể của mỗi người. Do đó, Luật hình sự Việt Nam đã xác định nguyên tắc thứ 2 trong việc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm là “mỗi người phải chịu trách nhiệm độc lập” về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm. Nguyên tắc này được thể hiện: 

+ Những người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người đồng phạm khác. Hành vi vượt quá của người đồng phạm là hành vi vượt ra ngoài ý định chung của những người đồng phạm và hành vi đó có thể đã cấu thành tội khác hoặc cấu thành tình tiết tăng nặng định khung. Hành vi vượt quá thông thường được hiểu là hành vi vượt quá của người thực hành.

Ví dụ: A và B đã bàn bạc và thống nhất sẽ vào trộm cắp tài sản nhà anh X. Trong khi A đứng gác, B đã bí mật vào nhà anh X. Trong khi đang lấy tài sản, b đã bị X phát hiện và bắt giữ. B đã đánh X bị thương để tẩu thoát. Việc làm này hoàn toàn nằm ngoài kế hoạch của A và B. Hành vi gây thương tích của B có thể cấu thành tội độc lập là Tội cố ý gây thương tích hay cấu thành tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của tội trộm cắp tài sản. Điều này tùy thuộc vào mức độ thương tích.

+ Việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt đối với người đồng phạm này không loại trừ trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác.

+ Hành vi của người tổ chức, xúi giục hay giúp sức dù chưa đưa đến việc thực hiện tội phạm vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

+ Sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người đồng phạm này không loại trừ trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác.

- Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm. 

Trong vụ đồng phạm, những người tham gia tuy phạm cùng tội nhưng tính chất và mức độ tham gia của mỗi người có khác nhau, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của mỗi người cũng khác nhau. Do vậy, trách nhiệm hình sự của mỗi người phải được xác định khác nhau.Thể hiện nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam xác định chính sách hình phạt của nhà nước ta là “Nghiêm trị kết hợp khoan hồng”. Đó là nghiêm trị những người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối. Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tổ giác người đồng phạm, lập công chuộc tội. Chính sách này được thể hiện rõ nét trong đường lối xét xử các vụ đồng phạm các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia.Bởi vì trong các vụ án này, bên cạnh những tên cầm đầu, chủ mưu, những tên hoạt động đắc lực có ý thức phạm tội sâu sắc còn có một số khá đông đã phạm tội do bị lừa phỉnh, ép buộc.

Chính sách nghiêm trị kết hợp với khoan hồng cũng được thể hiện rõ nét trong các vụ đồng phạm các tội phạm khác nếu trong các vụ đồng phạm đó có sự phân hóa rõ rệt hai loại người, một bên là những tên cầm đầu, thuộc phần tử xấu và một bên là những người nhất thời phạm pháp.

Căn cứ để xác định vụ án có đồng phạm :

Thứ nhất: Căn cứ khách quan gồm căn cứ vào số lượng người tham gia trong vụ án, căn cứ vào tính liên kết về hành vi cùng thực hiện một tội phạm, căn cứ vào hậu của do vụ án đồng phạm gây ra.
- Căn cứ và số lượng người trong vụ án: Điều 20 Bộ luật hình sự quy định trong vụ án đồng phạm phải có từ hai người trở lên, những người này đều phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

- Căn cứ vào tính liên kết về hành vi: Những người trong vụ án đồng phạm phải cùng nhau thực hiện một tội phạm. Hành vi của người đồng phạm này liên kết chặt chẽ với hành vi của người đồng phạm kia. Hành vi của những người đồng phạm phải hướng về một tội phạm, phải tạo điều kiện, hỗ trợ cho nhau để thực hiện một tội phạm thuận lợi. Nói cách khác, hành vi của đồng phạm này là tiền đề cho hành vi của đồng phạm kia. Hành vi của tất cả những người trong vụ án đồng phạm đều là nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại chung của tội phạm. 

- Căn cứ vào hậu quả tác hại: Hậu quả tác hại do tội phạm gây ra trong vụ án đồng phạm là hậu quả chung do toàn bộ những người đồng phạm gây ra. Hành vi của mỗi người trong vụ án đều là nguyên nhân gây ra hậu quả chung ấy, mặc dù có người trực tiếp, người gián tiếp gây ra hậu quả tác hại. Đây là đặc điểm về quan hệ nhân quả trong vụ án đồng phạm.

Thứ hai: Căn cứ vào mặt chủ quan của tội phạm. Tất cả những người trong vụ án đồng phạm phải có hình thức lỗi cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Tất cả họ đều thấy rõ hành vi của toàn bộ những người trong vụ án đều nguy hiểm cho xã hội. Mỗi người đồng phạm đều thấy trước hành vi của mình và hành vi của người đồng phạm khác trong vụ án đồng phạm là nguy hiểm, thấy trước hành vi của tất cả những người đồng phạm đều là nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại.

Thông qua bài viết này, tác giả cũng mong quý đồng nghiệp cùng nhau trao đổi, tìm hiểu nghiên cứu thêm vấn đề đồng phạm trong luật hình sự nước ta.

Nguyễn Hoàng Thái