Phải kiểm sát 100% số bản án, quyết định của Tòa án
Theo đó, mục đích ban hành Hướng dẫn nhằm giúp lãnh đạo, Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp cần nhận thức và áp dụng đúng pháp luật trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự, kể cả các quy định của luật tố tụng và luật nội dung như luật hình sự, dân sự, các pháp luật chuyên ngành khác, làm cơ sở cho việc phát hiện, xác định đúng vi phạm của các cơ quan tố tụng.
Phải thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, từ đó làm cơ sở để công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử được thực hiện chính xác, đầy đủ, toàn tiện, đúng pháp luật, đạt hiệu quả cao.
Phải kiểm sát 100% số bản án, quyết định của Tòa án, theo đúng Quyết định 139/QĐ-VKSTC ngày 29/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao về hệ thống chỉ tiêu công tác của ngành, phát hiện kịp thời, đầy đủ các vi phạm để kháng nghị, kiến nghị, không để bản án, quyết định nào có vi phạm mà không được xem xét xử lý.
Đồng thời, đảm bảo thực hiện chỉ tiêu của Quốc hội, của Ngành về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự theo Nghị quyết số 96/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội và Quyết định 139 của Viện trưởng VKSND tối cao, đặc biệt là các chỉ tiêu về số lượng, chất lượng kháng nghị, kiến nghị; tránh các trường hợp việc giải quyết vụ án có vi phạm, bị hủy, sửa ở cấp trên nhưng Viện kiểm sát cấp dưới không phát hiện để kháng nghị; hạn chế việc phải rút kháng nghị do không có căn cứ hoặc Tòa án không chấp nhận do chất lượng kháng nghị chưa tốt.
10 dạng vi phạm về luật nội dung
Trong quá trình theo dõi công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát các cấp, VKSND tối cao nhận thấy một số dạng vi phạm, chủ yếu. Trong đó có những vi phạm về luật nội dung, bao gồm tất cả những vi phạm của cơ quan tố tụng trong việc áp dụng pháp luật về nội dung để giải quyết vụ án; chủ yếu là Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác.
|
|
Kiểm sát viên bản lĩnh, tự tin tại phiên tòa hình sự xét xử "đại án" trong quản lý, sử dụng đất đai tại tỉnh Bình Dương. (Ảnh minh hoạ) |
Trong thực tế, theo VKSND tối cao thường gặp 10 dạng vi phạm về luật nội dung. Trước hết đó là việc bỏ lọt tội phạm. Đây là trường hợp có hành vi phạm tội nhưng Cơ quan điều tra không khởi tố điều tra tội phạm, Viện kiểm sát không truy tố dẫn đến Tòa án không xét xử. Việc bỏ lọt tội phạm xảy ở một số dạng: bỏ lọt người phạm tội, bỏ lọt tội danh hoặc bỏ lọt hành vi phạm tội, không điều tra, truy tố, xét xử về hành vi đó.
Bỏ lọt người phạm tội thường xảy ra trong vụ án đồng phạm, cơ quan tố tụng bỏ lọt không truy cứu đối với người giúp sức, người thực hiện, người xúi giục, thậm chí cả người chủ mưu, cầm đầu.
Bỏ lọt tội danh khi một người có nhiều hành vi phạm tội, phạm vào nhiều tội danh khác nhau song cơ quan tố tụng không xem xét, truy cứu hết các tội danh đó mà chỉ truy cứu một số và bỏ lại một số tội danh khác. Ví dụ như bị cáo có hành vi hiếp dâm sau đó giết nạn nhân, phạm vào hai tội “hiếp dâm” và “giết người”, song cơ quan tố tụng chỉ truy cứu tội “giết người” mà bỏ qua tội “hiếp dâm”.
Bỏ lọt hành vi phạm tội khi đối tượng thực hiện nhiều hành vi phạm tội nhưng cơ quan tố tụng chỉ điều tra, truy tố, xét xử một số hành vi còn bỏ lại một số hành vi không xem xét. Ví dụ như bị cáo trộm cắp tài sản 5 lần, mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản”, cơ quan tố tụng chỉ kết luận bị cáo trộm cắp 2 lần, dẫn đến việc đánh giá tính chất mức độ phạm tội không chính xác, đưa ra hình phạt quá nhẹ, không nghiêm đối với bị cáo.
Một vi phạm khác đó là việc định tội danh. Có 4 dạng vi phạm, là các trường hợp kết án người không phạm tội, kết án về tội danh nặng hơn, nhẹ hơn hoặc tội danh ngang bằng nhưng không đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.
Trường hợp kết án người không phạm tội không chỉ có lỗi của Tòa án mà trước đó là lỗi của Viện kiểm sát và của Cơ quan điều tra trong trường hợp cơ quan này đề nghị truy tố. Người đó có thể không có hành vi phạm tội hoặc có hành vi phạm tội và bị kết án nhưng thực tế không đủ chứng cứ chứng minh tội phạm.
Vi phạm về áp dụng khung hình phạt. Có 2 dạng vi phạm, Tòa án áp dụng khung hình phạt nặng hơn hoặc nhẹ hơn tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Còn có tình trạng Tòa án xử dưới khung hình phạt không đủ căn cứ theo Điều 54 Bộ luật hình sự.
Vi phạm về áp dụng mức hình phạt. Việc áp dụng sai khung hình phạt như trên thường dẫn đến hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ.
Bên cạnh đó là trường hợp Tòa án áp dụng đúng khung hình phạt, nhưng áp dụng mức phạt cụ thể không phù hợp. Ví dụ như bị cáo phạm tội “giết người” với khung hình phạt là tù 12 năm, 20 năm, chung thân hoặc tử hình. Với tính chất mức độ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tập trung nhiều tình tiết tăng nặng, bị cáo phải bị phạt tử hình nhưng Tòa án lại xử phạt bị cáo 20 năm tù; hoặc ngược lại bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, chỉ cần phạt bị cáo 20 năm tù, nhưng Tòa án lại xử phạt bị cáo tử hình.
Vi phạm về phạt tù cho hưởng án treo. Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về án treo và Hội đồng thẩm phán TAND tối cao có Nghị quyết số 02/2018/ NQ-HĐTP ngày 15/5/2018; Nghị quyết số 01/2022/ NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 02/2018 quy định rõ những trường hợp không cho hưởng án treo.
Trên thực tế có những bản án của Tòa án cho bị cáo hưởng án treo khi không đủ các điều kiện quy định tại Bộ luật hình sự và hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán. Ví dụ như luật quy định bị cáo có tiền án, tiền sự, phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần và các lần phạm tội từ nghiêm trọng trở lên, là đối tượng chủ mưu cầm đầu không được cho hưởng án treo, nhưng Tòa án vẫn cho bị cáo hưởng án treo.
Vi phạm về áp dụng loại hình phạt. Điều 32 Bộ luật hình sự 2015 quy định về 14 loại hình phạt, trong đó có 7 hình phạt chính và 7 hình phạt bổ sung. Mỗi loại hình phạt được áp dụng với một hoặc một số trường hợp phạm tội nhất định, Tòa án có vi phạm khi áp dụng không đúng trường hợp do luật định. Ví dụ như hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng nhưng Tòa án lại áp dụng đối với trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Vi phạm về tổng hợp hình phạt là các trường hợp không tổng hợp hình phạt của nhiều bản án; không tổng hợp phần còn lại của bản án đang được thi hành dở dang; không trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam của bị cáo; không xác định thời điểm bắt đầu thi hành án; không tổng hợp với hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo của bản án đang chấp hành theo đúng quy định của Bộ luật hình sự và trường hợp tổng hợp hình phạt không chính xác về thời gian chấp hành do nhầm lẫn về số liệu.
Vi phạm về xác định trách nhiệm dân sự là các trường hợp Tòa án xác định trách nhiệm bồi thường đối với bị cáo quá cao hoặc quá thấp; không xác định trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn hoặc hoàn trả, liên đới bồi thường; không xác định đúng người có nghĩa vụ và người có quyền được hưởng lợi theo luật định. Ví dụ như nhân viên gây thiệt hại trong khi làm nhiệm vụ được công ty giao, nhưng không buộc công ty có trách nhiệm bồi thường; hoặc đối tượng mạo danh chữ ký của khách hàng trong giấy đề nghị rút tiền để rút tiền của ngân hàng, cần buộc bị cáo bồi thường cho ngân hàng và ngân hàng vẫn phải trả tiền cho khách hàng, nhưng Tòa án lại buộc bị cáo trả cho khách hàng.
Mặt khác, còn một vi phạm khác là về áp dụng các quy định của pháp luật thuộc lĩnh vực chuyên ngành. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán chưa nắm rõ được các quy định của pháp luật thuộc các lĩnh vực chuyên ngành như kinh tế, tài chính, ngân hàng, xây dựng, hải quan, quản lý đất đai, quản lý bảo vệ khai thác lâm sản, y tế, giáo dục, từ đó không tìm được hoặc tìm không đúng văn bản, quy định cần áp dụng, dẫn đến xét xử không đúng luật định, ảnh hưởng đến việc xác định trách nhiệm hình sự, dân sự của các bên tham gia tố tụng.
Ngoài ra, còn có vi phạm về quyết định biện pháp tư pháp. Đó là các biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; bắt buộc chữa bệnh, được quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự. Vi phạm của Tòa án có thể là quyết định không tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội hoặc ngược lại là tịch thu công cụ, phương tiện khi không chứng minh được bị cáo dùng vào việc phạm tội.
Cùng với các nội dung trên, Hướng dẫn còn đề cập đến những vi phạm về luật tố tụng; các vi phạm cần kháng nghị, vi phạm cần kiến nghị; các kỹ năng phát hiện vi phạm để kháng nghị, kiến nghị…