Nội dung và quá trình giải quyết vụ án

Theo nội dung hồ sơ vụ án và trình bày của bị đơn là ông Trần Văn Công thể hiện: Nhà 1 tầng diện tích xây dựng 100m2 trên diện tích đất ở 133,8m2 tại 156 Kim Hoa (phường Phương Liên, quận Đống Đa, TP Hà Nội) thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ông và bà Phạm Minh Thuý (bà Thuý là vợ ông Công nhưng đã li hôn) theo Giấy chứng nhận được cấp năm 2004.

Năm 2011, ông Công có nhu cầu bán nhà và đất ở số 156 Kim Hoa. Ông Phạm Đức Toàn (ở số nhà 164 Kim Hoa) biết việc ông Công bán nhà, nên đã hỏi mua nhà đất với giá 22 tỉ đồng. Do ông Toàn không có đủ số tiền trả nên có bàn với ông Công kí hợp đồng chuyển nhượng nhà và đất số 156 Kim Hoa cho ông Lê Minh Tuấn ở phường Quán Thánh, quận Ba Đình, TP Hà Nội để ông Tuấn cho ông Toàn vay 8 tỉ đồng. Sau đó, ông Toàn lấy 2 tỉ đồng đặt cọc tiền mua nhà 156 Kim Hoa cho ông, còn 6 tỉ đồng ông Toàn dùng làm vốn đối ứng để vay Ngân hàng 35 tỉ đồng thì sẽ trả nốt ông 20 tỉ. Do thấy ông Toàn trả giá cao hơn giá thị trường nên ông Công và bà Thuý đã đồng ý phương án mà ông Toàn đưa ra. 

Ông Công khẳng định ông và bà Thuý chỉ thoả thuận bán nhà cho ông Toàn với giá 22 tỉ, ông Toàn mới đưa cho ông 2 tỉ còn nợ lại 20 tỉ; việc ký bán nhà cho ông Tuấn với giá 8 tỉ đồng chỉ để ông Tuấn tin tưởng mà cho ông Toàn vay số tiền 8 tỉ đồng.

Tháng 11/2011, khi biết tin ông Tuấn làm thủ tục sang tên nhà, đất 156 Kim Hoa, ông đã có đơn kiến nghị gửi Phòng Tài nguyên - Môi Trường quận Đống Đa đề nghị không thực hiện việc sang tên cho ông Tuấn. Sau đó, ông Công làm đơn tố cáo ông Toàn và một số cá nhân liên quan đến cơ quan Bộ Công an (C45), đề nghị làm rõ hành vi cấu kết lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ông và bà Thuý. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Tuấn, ông không đồng ý trả nhà cho ông Tuấn, vì thực chất không có việc ông và bà Thuý bán nhà 156 Kim Hoa cho ông Tuấn.

leftcenterrightdel
 Nhà đất tại số 156 Kim Hoa, phường Phương Liên, quận Đống Đa, TP Hà Nội.
 

Đồng thời, ông Công, bà Thuý có đơn phản tố đề nghị huỷ hợp đồng chuyển nhượng nhà đất 156 Kim Hoa giữa ông Công, bà Thuý và ông Tuấn lập ngày 18/8/2011, huỷ hợp đồng mượn nhà lập ngày 18/8/2011 vì vô hiệu do giả tạo, chỉ nhằm mục đích bảo lãnh cho khoản vay 8 tỉ đồng của ông Toàn, đề nghị giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Theo đó, ông sẽ trả lại ông Tuấn 2 tỉ đồng mà ông đã nhận từ ông Toàn và lãi suất của số tiền này; huỷ việc sang tên nhà, đất 156 Kim Hoa của UBND quận Đống Đa cho ông Tuấn.  

Còn theo nội dung Bản án sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 9/5/2022, phía nguyên đơn là ông Lê Minh Tuấn trình bày: Ngày 18/8/2011 tại nhà 156 Kim Hoa, ông Công, bà Thuý đã ký hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất và tài sản gắn liền với đất tại 156 Kim Hoa cho ông với giá mua là 8 tỉ đồng. Hợp đồng chuyển nhượng do chị Hương là nhân viên Văn phòng công chứng Lạc Việt lập giúp.

Tại “Biên bản giao nhận tiền” cùng ngày 18/8/2011 thể hiện ông Tuấn đã thanh toán cho ông Công, bà Thuý số tiền 8 tỉ đồng. Đồng thời bên còn lập “Văn bản cho mượn nhà” ngày 18/8/2011 với nội dung: Ông Tuấn cho ông Công, bà Thuý mượn lại nhà 156 Kim Hoa để ở trong khi ông Công, bà Thuý chưa tìm được trong thời hạn 2 tháng, hết thời hạn 2 tháng ông Công, bà Thuý phải thu dọn toàn bộ đồ đạc để trả nhà cho ông Tuấn kể cả chưa tìm được chỗ ở mới.

Sau khi thực hiện xong việc xoá nợ ghi trên GCNQDĐ, Văn phòng công chứng Lạc Việt đã thực hiện công chứng hợp đồng chuyển nhượng nhà đất 156 Kim Hoa giữa bên bán là ông Công, bà Thuý và bên mua là ông Tuấn.

Khi ông Tuấn đã làm thủ tục đăng ký sang tên chước bạ nhà, đất tại Phòng Tài nguyên - Môi trường quận Đống Đa thì ông Công, bà Thuý có đơn đề nghị dừng việc sang tên cho ông. Sau đó ông Công, bà Thuý đã có đơn rút đề nghị này. Ngày 16/11/2011, UBND quận Đống Đa đã đăng ký sang tên nhà, đất 156 Kim Hoa đứng tên ông Tuấn.

Hết thời hạn cho mượn nhà mặc dù ông đã nhiều lần yêu cầu ông Công, bà Thuý trả lại nhà nhưng ông Công và bà Thuý không trả nhà mà còn tố cáo ông lừa đảo. Nay ông khởi kiện ông Công, bà Thuý ra Toà, đề nghị Toà án buộc ông Công, bà Thuý phải trả nhà đất 156 Kim Hoa cho ông Tuấn.

Còn về phía ông Công, bà Thuý, khi phát hiện sự việc có dấu hiệu sai phạm, ông Công đã có đơn gửi Bộ Công an về việc ông Toàn và một số cá nhân có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhà và đất của ông và bà Thuý tại 156 Kim Hoa. Vụ việc này hiện đang được Công an TP Hà Nội giải quyết, tuy nhiên chưa công bố kết quả điều tra, do ông Toàn đang bị truy nã.

Về việc giải quyết vụ án trên, ngày 9/5/2022, TAND TP Hà Nội đã đưa vụ án dân sự về “Tranh chấp đòi nhà, đất; Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất; Tranh chấp hợp đồng mượn nhà, đất; Yêu cầu huỷ giấy chứng nhận QSDĐ&TS gắn liền với đất” giữa nguyên đơn là ông Tuấn với bị đơn có yêu cầu phản tố là ông Công và bà Thuý ra xét xử sơ thẩm. 

Theo đó, tại Bản án sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 9/5/2022, TAND TP Hà Nội đã tuyên, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Tuấn và chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Công, bà Thuý. Cụ thể, huỷ Hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất số 156 Kim Hoa giữa ông Công, bà Thuý với ông Tuấn; buộc ông Công, bà Thuý có trách nhiệm liên đới trả cho ông Tuấn số tiền là 15,2 tỉ đồng (mỗi người là 7,6 tỉ đồng).

leftcenterrightdel
 Công chức, Kiểm sát viên phòng xử lý đơn thuộc VKSND tại Hà Nội. (Ảnh minh hoạ) 

Sau đó, nguyên đơn, bị đơn kháng cáo đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 9/5/2022 của TAND Thành phố Hà Nội. Ngày 27/10/2023, TAND cấp cao tại Hà Nội đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Tại phiên toà, đại diện VKSND cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của VKSND cấp cao tại Hà Nội, chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn Công, huỷ bản án sơ thẩm của TAND TP Hà Nội.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử đã tuyên (Bản án phúc thẩm dân sự số 525/2023/DS-PT ngày 27/10/2023) với nội dung: Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự đối với kháng cáo của nguyên đơn và một phần kháng cáo của bị đơn; không chấp nhận kháng cáo của bị đơn; giữ nguyên quyết định của Bản án số 18/2022/DS-ST ngày 9/5/2022 của TAND TP Hà Nội.

Kháng nghị chỉ ra những vi phạm và thiếu sót của bản án sơ thẩm

Ngày 8/6/2022, VKSND cấp cao tại Hà Nội có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 17/QĐKNPT-VC1-DS đối với Bản án số 18/2022/DS-ST ngày 9/5/2022 của TAND TP Hà Nội. Theo nhận định của Viện kiểm sát, ngày 18/8/2011, ông Công, bà Thuý kí Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất số 156 Kim Hoa cho ông Phạm Đức Toàn với giá 22 tỉ đồng. Đồng thời, trong ngày 18/8/2011, ông Công, bà Thuý kí “Văn bản mượn nhà” số 156 Kim Hoa với ông Lê Minh Tuấn (bên cho mượn nhà) và cùng ngày giữa ông Công, bà Thuý (bên cho vay) với ông Toàn (bên vay) đã kí “Hợp đồng vay tiền” có dấu và chữ kí của Công cứng viên Văn phòng Công chứng Lạc Việt số tiền vay là 20 tỉ đồng.

Ngày 20/10/2011, ông Công, bà Thuý kí Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất số 156 Kim Hoa với giá 8 tỉ đồng cho ông Tuấn (có con dấu và chữ ký của Công chứng viên Văn phòng Công chứng Lạc Việt). Ngày 16/11/2011, ông Lê Minh Tuấn được UBND quận Đống Đa cấp GCNQSDĐ đối với nhà đất, số 156 Kim Hoa.

Ông Công, bà Thuý trình bày việc kí Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất trên cho ông Tuấn chỉ nhằm để bảo đảm khoản nợ ông Tuấn cho ông Toàn vay 8 tỉ đồng để ông Toàn lấy 2 tỉ đồng đặt cọc nhà của ông với giá 22 tỉ đồng, còn 6 tỉ đồng làm tài sản đối ứng vay Ngân hàng 20 tỉ đồng để trả nốt số tiền mua nhà cho ông.

Liên quan đến vụ việc, ngày 10/6/2012, ông Tuấn gửi đơn đến Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT), Bộ Công an đề nghị giải quyết việc ông Toàn chiếm đoạt tài sản của ông, vì đã cho ông Toàn vay số tiền 8 tỉ đồng và được ông Toàn trả bằng việc kí Hợp đồng mua bán nhà, đất số 156 Kim Hoa.

Ngày 29/11/2011, ông Công, bà Thuý cũng có đơn tố cáo ông Toàn có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản gửi Cục C45, Bộ Công an vì thực tế ông Công, bà Thuý chỉ nhận 2 tỉ đồng tiền đặt cọc chuyển nhượng nhà, đất số 156 Kim Hoa từ ông Toàn. Ngoài ra ông, bà không nhận thêm khoản tiền nào khác.

leftcenterrightdel
 Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 17/QĐKNPT-VCI-DS ngày 8/6/2022 của VKSND cấp cao tại Hà Nội.

Cơ quan CSĐT, Công an TP Hà Nội đã tiếp nhận giải quyết tin báo tố giác tội phạm của ông Tuấn, ông Công và bà Thuý đối với hành vi chiếm đoạt tài sản có liên quan đến nhà, đất số 156 Kim Hoa của đối tượng Toàn.

Ngày 3/8/2018, Cơ quan CSĐT có Công văn số 1585/CV-PC46-Đ9, với nội dung: Ngoài tội danh khác đã bị khởi tố, Toàn còn có hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản thông qua thoả thuận vay tiền để đặt cọc mua nhà của ông Công, bà Thuý, sau đó bỏ trốn. Hiện, Cơ quan CSĐT Công an TP Hà Nội đang tiến hành xác minh, truy bắt và xử lí theo pháp luật.

Kháng nghị của VKSND cấp cao tại Hà Nội cũng nêu rõ: Trong khi chưa có kết quả giải quyết của Cơ quan CSĐT đối với tin báo tố giác nêu trên nhưng Toà án vẫn giải quyết vụ án dân sự là vi phạm điểm d, khoản 1, Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trường hợp này phải tạm đình chỉ vụ án dân sự để chờ kết quả xử lí tin báo tố giác mới đúng. Vì khi có căn cứ khởi tố vụ án hình sự đối với Toàn thì Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất và Hợp đồng vay tiền thực chất chỉ là phương tiện, thủ đoạn để Toàn thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của ông Tuấn. Khi CQĐT giải quyết tin báo không có căn cứ khởi tố thì Toà án mới thụ lí giải quyết theo thẩm quyền.

Cũng theo VKSND cấp cao tại Hà Nội, các bên đều biết việc kí Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất là để che giấu giao dịch khác, trong trường hợp là Hợp đồng vô hiệu thì giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu. Trong trường hợp đó cần xác định lỗi của ông Công, bà Thuý và ông Tuấn khi giải quyết vụ án. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm không đề cập đến việc xử lí Hợp đồng vô hiệu, song phần Quyết định vẫn áp dụng Điều 127, Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 về giao dịch vô hiệu và hậu quả pháp lí của giao dịch vô hiệu để giải quyết vụ án là có sự không đồng nhất trong việc nhận định và quyết định của bản án, không buộc ông Tuấn phải chịu một phần lỗi mà buộc ông Công, bà Thuý có trách nhiệm liên đới trả ông Tuấn toàn bộ số tiền 8 tỉ đồng và lãi suất, tổng số tiền 15,2 tỉ đồng là không có căn cứ. 

Mặt khác, Bản án sơ thẩm buộc ông Công, bà Thuý mỗi người có trách nhiệm liên đới trả cho ông Tuấn 7,6 tỉ đồng là chưa có cơ sở vững chắc vì theo Quyết định thuận tình li hôn thì quyền sở hữu đối với nhà, đất số 156 Kim Hoa của ông Công và bà Thuý không bằng nhau (ông Công được sở hữu 91,8m2, bà Thuý 38,5m2) khi buộc trách nhiệm liên đới phải chia theo tỉ lệ tài sản thuộc sở hữu riêng của từng người.

Từ những phân tích và đánh giá nêu trên, VKSND cấp cao tại Hà Nội đã quyết định kháng nghị toàn bộ Bản án dân sự số 18/2022/DS-ST ngày 9/5/2022 của TAND TP Hà Nội theo thủ tục phúc thẩm và đề nghị TAND cấp cao tại Hà Nội xét xử theo hướng hủy Bản án này để giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

Về phía ông Công và bà Thuý, sau phiên toà ngày 27/10/2023 của TAND cấp cao tại Hà Nội, do không đồng ý với phán quyết của Toà án đã có đơn đề nghị gửi TAND tối cao đề nghị xem xét vụ án theo trình tự giám đốc thẩm và hi vọng vụ án sẽ được xem xét lại một cách toàn diện, triệt để, khách quan, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đương sự trong vụ án.

Báo Bảo vệ pháp luật sẽ tiếp tục phản ánh về vụ việc khi có thông tin mới.

Liên quan đến vụ việc trên, tại phiên toà sơ thẩm, đại diện VKSND TP Hà Nội cho rằng: Toà án chưa thu thập được lời khai của ông Toàn và CQĐT chưa có kết luận giải quyết đơn tố giác tội phạm của ông Công, nên đề nghị Toà án tạm ngừng phiên toà để chờ kết luận của CQĐT. Trường hợp Toà án không tạm ngừng phiên toà thì VKSND không phát biểu về nội dung vụ án. Còn tại phiên toà phúc thẩm, đại diện VKSND cấp cao tại Hà Nội cho rằng, Toà án cấp sơ thẩm chưa xác định lỗi của các bên, nên đã vi phạm về tố tụng nội dung mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của VKSND cấp cao tại Hà Nội, chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn Công huỷ bản án sơ thẩm của TAND TP Hà Nội.
P.V