Theo nội dung vụ án, Trần Văn Hậu có 4 tiền án, chưa được xóa án tích. Tuy nhiên, khi nhận được điện thoại mua ma túy của đối tượng tên Lép, bị cáo Hậu đã điện thoại cho bị cáo Nguyễn Thị Kiều Oanh (người sống chung như vợ chồng với Hậu) chỉ chỗ và nơi cất ma túy để bị cáo Oanh lấy đi giao cho Lép và Rượu (không biết tên và địa chỉ cụ thể).
Vào lúc 10 giờ ngày 5/2/2020, khi đang trên đường đi giao ma túy thì Oanh bị bắt quả tang. Kết luận giám định của cơ quan chuyên môn xác định số ma túy mà Oanh đưa đi bán gồm 1 gói nilon chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy loại “Ketamine”, 1 gói nilon chứa 209 viên nén là ma túy Hồng phiến có khối lượng 10,03 gam loại Ketamine và 20,39 gam loại Methamphetamine. Qua lời khai của Nguyễn Thị Kiều Oanh, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã khám xét nơi ở của bị cáo Oanh và bị cáo Hậu tại nhà trọ số 249 Phan Đình Phùng, phường Bắc Lý, TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình phát hiện thu giữ số ma túy mà các bị cáo cất giấu.
|
|
Kiểm sát viên cao cấp Nguyễn Xuân Thanh - VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thực hành quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm. |
Kết luận giám định, tổng số ma túy mà bị cáo Hậu cất giấu nhằm mục đích sử dụng và bán lại kiếm lời có tổng khối lượng 542,554 gam, loại Methamphetamine và 123,96 gam, loại Ketamine. Hành vi của bị cáo Trần Văn Hậu đủ cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 251 BLHS 2015, với tình tiết định khung tăng nặng tại điểm h khoản 4 là “Có 2 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng...quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này”.
Bản án số 18a/2021/HS-ST ngày 13/4/2021, TAND tỉnh Quảng Bình tuyên bị cáo Trần Văn Hậu phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc Tòa án áp dụng điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Trần Văn Hậu 19 năm tù là không đúng pháp luật, không tương xứng và không đánh giá đúng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Từ đó, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đã ra quyết định kháng nghị bản án sơ thẩm số 18a/2021/HS-ST ngày 13/4/2021, TAND tỉnh Quảng Bình. Nội dung kháng nghị và quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm khẳng định:
Thứ nhất: Tuy quá trình điều tra bị cáo Trần Văn Hậu đã thành khấn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo Hậu bị phát hiện, xử lý thông qua lời khai của bị cáo Nguyễn Thị Kiều Oanh, do đó khi xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo Hậu cũng chỉ trong mức độ hạn chế nhất định.
Thứ hai: Bị cáo Hậu chỉ thành khấn khai báo về hành vi phạm tội của bản thân khi Cơ quan CSĐT lấy lời khai của bị cáo Oanh đã phát hiện ra hành vi phạm tội của mình, nhưng không có việc giúp Cơ quan CSĐT phát hiện thêm tội phạm mới hoặc đồng phạm mới. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo Hậu là không chính xác. Tại điểm 3, mục I Công văn 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019, TAND tối cao hướng dẫn như sau, tình tiết "Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” được hiểu “là trường hợp người phạm tội có những hành vi, lời khai thể hiện sự hợp tác tích cực với cơ quan có trách nhiệm trong việc nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án, giúp các cơ quan này phát hiện thêm tội phạm mới hoặc đồng phạm mới”.
Thứ ba: Bản thân bị cáo có nhân thân rất xấu, có 4 tiền án, hiện đang chấp hành án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS 2015. Ngoài ra, bị cáo còn có nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định và áp dụng tình tiết giảm nhẹ “ăn năn hối cải” đối với bị cáp Hậu là không đúng. Khối lượng ma túy bị cáo Hậu truy cứu trách nhiệm hình sự gấp hơn 6 lần mức khởi điểm của khung hình phạt bị xét xử.
Như vậy, bị cáo Trần Văn Hậu chỉ có 1 tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, nên không đủ điều kiện được áp dụng Điều 54 BLHS 2015, xét xử cho bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đã tuyên (19 năm tù). Do đó, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc trong khung hình phạt đối với bị cáo Trần Văn Hậu mới đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội và quy định của pháp luật đối với hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX cấp phúc thẩm TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận kháng nghị phúc thẩm của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng để sửa bản án hình sự sơ thẩm, tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Văn Hậu từ 19 năm tù lên Chung thân.