Không nên sinh hoạt TD trong những ngày lạnh lẽo hoặc trong điều kiện quá lạnh, vì có thể mắc chứng liệt dương ở nam và lãnh đạm ở nữ.
Mùa xuân, tính từ tiết lập xuân đến tiếp lập hạ, là mùa khởi đầu của một năm. Đó là mùa như y thư cô Hoàng Đế Nội Kinh đã viết: “Ba tháng mùa xuân, băng tuyết đã tan dần, khí dương trong giới tự nhiên bắt đầu thăng phát, vạn vật hồi sinh”.
“Thiên nhân tương ứng” lúc này dương khí trong nhân thế cũng thuận ứng tự nhiên, phát tiết hướng thượng và hướng ngoại. Do vậy, phép dưỡng sinh mùa xuân nói chung và dưỡng sinh tình dục (TD) nói riêng phải năm vững sự thăng phát của dương khí mà xử thế cho phù hợp.
Mùa Xuân tần số sinh hoạt TD nên như thế nào?
Có thể nói, đây là một trong những vấn đề trọng yếu của TD học hiện đại, vấn đề mà cho tới nay vẫn chưa đạt được sự nhất trí và thống nhất. Có người cho rằng, tần số sinh hoạt bao nhiêu không cần biết, chỉ cần sau những cuộc “mây mưa” đó, cơ thể vẫn không có cảm giác mệt mỏi và không làm ảnh hưởng đến chất lượng làm việc của ngày kế tiếp là được.
Theo quan niệm của Y học cổ truyền, tần số và khả năng sinh hoạt TD phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự ảnh hưởng của khí hậu thời tiết bốn mùa có ý nghĩa khá quan trọng. Cổ nhân cho rằng, sinh hoạt phòng trung phải thuận theo sự biến đổi của thiên nhiên, phải tuân thủ quy luật “Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu thu, Đông tàng” (mùa Xuân thì sinh ra, mùa Hạ thì trưởng thành, mùa Thu thì thu liễm, mùa Đông thì bế tàng).
Mùa Xuân là mùa vạn vật bắt đầu nảy nở, khí trời ấm áp, khí đất phát sinh. Lúc này, dương khí trong muôn loài và nhân thể từ từ hồi sinh và thăng phát, hân hoan chào đón hơi ấm của mùa Xuân sau một thời gian dài liễm tàng dưới thời tiết của mùa Đông lạnh giá.
Cơ thể con người cũng hưng phấn cùng trời đất, toàn thân cảm giác nhẹ nhõm, tay chân linh hoạt, tinh thần phấn chấn, sức lực sung mãn, quá trình chuyển hóa thay cũ đổi mới cũng dần dần vượng thịnh, năng lực và ham muốn TD trong nhân thể cũng thuận ứng mà sinh phát.
Theo đó, sinh hoạt phòng trung có thể trở lại bình thường và gia tăng sau ba tháng mùa Đông kiềm chế để tàng tinh dưỡng khí. Cổ nhân cho rằng “Xuân nhất, Hạ nhị, Thu nhất, Đông vô”, ý muốn nói “liều lượng” hành phòng mỗi mùa mỗi khác. Nếu như mùa Xuân và mùa Thu là một thì mùa Hạ là hai và mùa Đông thì hạn chế ở mức thấp nhất, nếu như không muốn nói là phải tuyệt dục.
Sách dưỡng sinh tập yếu khuyên: “Xuân thiên tam nhật nhất thi tinh, Hạ cập Thu đương nhất nguyệt tái thi tinh, Đông đương bế tinh vật thi” (mùa Xuân ba ngày giao hợp một lần, mùa Hạ và mùa Thu thì một tháng hai lần còn mùa Đông thì không nên xuất tinh) và “Đông nhất thì đương Xuân bách” (mùa Đông xuất tinh một lần thì bằng mùa Xuân xuất tinh một trăm lần).
Có nên thụ thai vào mùa Xuân hay không?
Từ xa xưa, Y học cổ truyền đã nhận thức rất rõ sự ảnh hưởng của yếu tố thời gian và điều kiện hoàn cảnh bên ngoài khi thực hành tính giao thụ thai đối với sức khỏe của thai nhi, trong đó khí hậu và môi trường tự nhiên có vai trò khá quan trọng.
Theo danh y Trương Cảnh Nhạc, sinh hoạt TD trong điều kiện thuận lợi thì “vu kỳ đắc tử, phi duy thiểu tật, nhi tất thư thông tuệ hiền minh, thai nguyên bẩm phú, thực cơ vu thử”, ý muốn nói: nếu chọn được thời điểm thụ thai tốt thì đứa trẻ sinh ra không những ít bệnh tật mà còn thông minh, nhanh nhẹn, sáng láng.
Mặc dù còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ, nhưng căn cứ vào kết quả nghiên cứu, không ít chuyên gia cho rằng tháng 4 hàng năm là thời gian thụ thai tốt nhất, bởi lẽ:
- Tháng 4, tiết trời giữa Xuân tràn đầy sức sống, hoạt lực của tinh trùng và trứng cũng sung mãn. Mặt trời chiếu chếch nên ảnh hưởng của bức xạ ion đối với trái đất cũng giảm thiểu, rất có lợi cho việc bảo vệ hoạt tính lý tưởng của tinh trùng và trứng cũng như sự phát triển khỏe mạnh của thai nhi.
- Sau khi thụ thai 3 - 4 tháng, thời kỳ đại não và hệ thống thần kinh trung ương hình thành, lúc này là mùa Thu, điều kiện rau cỏ, hoa trái rất phong phú và sung túc, thuận lợi cho việc đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cả người mẹ và thai nhi.
- Tháng 4 thụ thai thì trong giai đoạn đầu và giữa của thai kỳ, sản phụ tránh được khá nhiều các bệnh lý truyền nhiễm của mùa Đông – Xuân nên cũng hạn chế được tối đa những dị tật rủi ro cho thai nhi.
- Tài liệu thống kê cho cho thấy, trên thế giới có rất nhiều nhà khoa học lỗi lạc và các danh nhân sinh ra vào thời điểm “Thu mạt Đông sơ” (cuối Thu đầu Đông), có nghĩa là được thụ thai vào khoảng tháng 4 hàng năm.
Mùa Xuân sinh hoạt TD cần kiêng kị gì?
Theo tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”, “thiên nhân tương ứng”, các sách cổ như: Ngọc phòng bí điển, Động huyền tử… khi bàn đến thuật phòng trung đều cho rằng: mùa Xuân quay về hướng Đông, Xuân thuộc mộc và Đông cũng thuộc mộc nên việc sinh hoạt TD là rất có ích, đặc biệt là vào các năm Giáp Ất (đều thuộc mộc). Tuy nhiên, phép dưỡng sinh TD mùa Xuân cũng cần phải chú ý một số vấn đề như sau:
- Cần hết sức chú ý yếu tố tâm lý, tinh thần trong sinh hoạt TD, bởi lẽ mùa Xuân phải luôn luôn nghĩ đến chữ “sinh”, “sinh để cho chí sinh”, “chí sinh” nghĩa là làm cho ý chí của mình phát sinh, đừng để cho tâm trạng bị uất ức, phải khoan dung, khoáng đạt, lạc quan vui vẻ, khiến cho tình ý được cởi mở, phải “giới nộ”, nghĩa là biết kiềm chế, chớ nổi giận.
Mùa Xuân ứng với can mộc, uất ức và giận dữ rất dễ làm thương tổn tạng can. Can tổn thương sẽ làm phát sinh nhiều bệnh lý TD như: di tinh, huyết tinh, xuất tinh sớm…
- Không nên sinh hoạt TD trong những ngày lạnh lẽo hoặc trong điều kiện quá lạnh, vì có thể mắc chứng liệt dương ở nam và lãnh đạm ở nữ.
- Không nên “động phòng” khi đã uống quá nhiều rượu và ăn quá nhiều đồ ăn ngọt béo, vì rượu là thứ đại nhiệt có thể gây rối loạn TD và chất lượng tinh trùng. Thức ăn ngọt béo dễ sinh nhiệt, sinh đàm, “đàm có thể sinh ra trăm bệnh trên đời”.
- Theo cổ nhân, giai đoạn cuối Xuân đầu Hạ, vào những ngày bắt đầu có mưa rào sấm chớp thì không nên sinh hoạt TD và càng không nên thụ thai vì động phòng lúc này dễ làm cho huyết mạch bị rối loạn và nếu thụ thai thì đứa trẻ sinh ra thường ốm yếu, dễ mắc các chứng điên cuồng, thủy thũng…
- Cuối cùng, mặc dù mùa Xuân là mùa “liều lượng” phòng trung có thể tăng lên nhưng cũng không vì thế mà lạm dụng, phóng túng vô độ, bởi lẽ mọi sự “thái quá” đều có thể phát sinh “bất cập”.
Theo SKĐS