Theo đó, Nghị định số 61/2020/NĐ-CP có hiệu lực từ 15/7/2020 sửa đổi, bổ sung Khoản 2, Khoản 3 Điều 12 về đóng
BH thất nghiệp. Cụ thể, NLĐ được xác định là đang đóng BH thất nghiệp theo quy định tại Điều 49 của Luật Việc làm khi thuộc một trong các trường hợp:
Thứ nhất, NLĐ đã đóng BH thất nghiệp của tháng chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc và được cơ quan BHXH xác nhận trên sổ BHXH.
Thứ hai, NLĐ đã đóng BH thất nghiệp của tháng liền kề trước tháng chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc và được cơ quan BHXH xác nhận trên sổ BHXH.
Thứ ba, NLĐ có tháng liền kề trước tháng chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc hoặc tháng chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc mà nghỉ việc do ốm đau, thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng, không hưởng tiền lương tháng tại đơn vị và được cơ quan BHXH xác nhận trên sổ BHXH.
Thứ tư, NLĐ có tháng liền kề trước tháng chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc hoặc tháng chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc mà nghỉ việc không hưởng lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng tại đơn vị và được cơ quan BHXH xác nhận trên sổ BHXH.
Thứ năm, NLĐ có tháng liền kề trước tháng chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc hoặc tháng chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc mà tạm hoãn thực hiện HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng tại đơn vị và được cơ quan BHXH xác nhận trên sổ BHXH.
Tháng đóng BH thất nghiệp của NLĐ được tính nếu người SDLĐ và NLĐ đã thực hiện HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc và đã đóng BH thất nghiệp. Trường hợp NLĐ đã được giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp, sau khi chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp mới được cơ quan BHXH xác nhận bổ sung thời gian đóng BH thất nghiệp, thì thời gian này được xác định là thời gian đóng nhưng chưa hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại Khoản 1, Điều 45 Luật Việc làm.
Nghị định cũng sửa đổi, bổ sung một số phương thức xác minh để NLĐ hưởng BH thất nghiệp. Theo đó, sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 16 quy định, bản chính hoặc bản sao có chứng thực hoặc bản sao kèm theo bản chính để đối chiếu của một trong các giấy tờ sau đây xác nhận về việc chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc: HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc đã hoàn thành công việc theo HĐLĐ; quyết định thôi việc; quyết định sa thải; quyết định kỷ luật buộc thôi việc; thông báo hoặc thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc; xác nhận của người SDLĐ trong đó có nội dung cụ thể về thông tin của NLĐ; loại HĐLĐ đã ký; lý do, thời điểm chấm dứt HĐLĐ đối với NLĐ; xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc DN hoặc HTX giải thể, phá sản hoặc quyết định bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với các chức danh được bổ nhiệm trong trường hợp NLĐ là người quản lý DN, quản lý HTX.
Đối với trường hợp NLĐ không có các giấy tờ xác nhận về việc chấm dứt HĐLĐ do đơn vị SDLĐ không có người đại diện theo pháp luật và người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền, thì thực hiện theo quy trình sau:
Sở LĐ-TB&XH hoặc BHXH cấp tỉnh gửi văn bản yêu cầu Sở KH-ĐT xác nhận đơn vị SDLĐ không có người đại diện theo pháp luật hoặc không có người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền.
Sở KH-ĐT có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Thuế, cơ quan Công an, chính quyền địa phương nơi đơn vị SDLĐ đặt trụ sở chính thực hiện xác minh nội dung đơn vị SDLĐ không có người đại diện theo pháp luật hoặc không có người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền. Sau khi xác minh, Sở KH-ĐT gửi văn bản trả lời cho Sở LĐ-TB&XH và BHXH cấp tỉnh về nội dung đơn vị SDLĐ không có người đại diện theo pháp luật hoặc không có người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu xác nhận của Sở LĐ-TB&XH và BHXH cấp tỉnh.
Trường hợp NLĐ tham gia BH thất nghiệp theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 43 Luật Việc làm, thì giấy tờ xác nhận về việc chấm dứt HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng là bản chính hoặc bản sao có chứng thực hoặc bản sao kèm theo bản chính để đối chiếu của hợp đồng đó.
Ngoài ra, Nghị định cũng bổ sung Khoản 4 Điều 17: “Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp, nếu NLĐ không có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp, thì NLĐ phải trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác nộp đề nghị không hưởng trợ cấp thất nghiệp cho Trung tâm DVVL nơi NLĐ đã nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp”.