Từng được biết đến như một tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn, Sơn La hôm nay đã khoác lên mình màu áo mới của mùa quả ngọt. Những triền đồi mận, nhãn, xoài, bơ… nối tiếp nhau trải dài khắp các vùng quê, không chỉ làm nên bức tranh nông nghiệp trù phú mà còn mở ra hành trình đổi thay sâu sắc trong đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc nơi đây.
Bước đại nhảy vọt từ chủ trương đúng hướng
Từ năm 2016 đến 2025, Sơn La đã thực hiện cuộc “đại chuyển mình” trong nông nghiệp khi mạnh dạn chuyển đổi và trồng mới gần 62.000 ha cây ăn quả, nâng tổng diện tích toàn tỉnh lên 85.000 ha, lớn nhất miền Bắc và đứng thứ hai toàn quốc. Nhờ vậy, sản lượng cây ăn quả của tỉnh năm 2025 ước đạt 510.000 tấn, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế địa phương.
Nếu như trước đây, nông dân Sơn La sống dựa vào cây ngô, cây sắn với giá trị thấp, thì nay, mỗi ha cây ăn quả đem lại 150 - 300 triệu đồng/năm, có mô hình đạt tới 400 - 500 triệu đồng/ha, gấp từ 4 đến 10 lần so với năm 2016. Những con số biết nói ấy phản ánh tầm nhìn chiến lược trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng khi sản xuất nông nghiệp không chỉ hướng tới sản lượng, mà còn đặt trọng tâm vào giá trị và hiệu quả.
    |
 |
Những đồi nhãn ở Yên Châu, những vườn xoài ở Mai Sơn, mận hậu ở Mộc Châu… không chỉ mang lại nguồn thu ổn định mà còn nuôi dưỡng niềm tin vào tương lai nông nghiệp xanh, sạch và bền vững. Ảnh CTTĐT tỉnh Sơn La |
Chủ trương đúng, khi đi vào lòng dân, đã tạo ra sức lan tỏa mạnh mẽ. Từng hộ, từng bản, từng hợp tác xã đều trở thành “tế bào năng động” trong bức tranh phát triển chung. Những đồi nhãn ở Yên Châu, những vườn xoài ở Mai Sơn, mận hậu ở Mộc Châu… không chỉ mang lại nguồn thu ổn định mà còn nuôi dưỡng niềm tin vào tương lai nông nghiệp xanh, sạch và bền vững.
Chuỗi giá trị được hoàn thiện, công nghệ mở đường cho hiện đại hóa
Nếu ví sản xuất nông nghiệp như một “cỗ máy lớn”, thì chuỗi giá trị chính là trục truyền động của nó. Chỉ trong vài năm, Sơn La đã xây dựng được 201 chuỗi giá trị cây ăn quả với tổng diện tích trên 4.500 ha, cùng 335 doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia sản xuất trên gần 9.400 ha đất canh tác.
Tỉnh cũng tiên phong trong ứng dụng khoa học - công nghệ vào nông nghiệp: hơn 2.200 ha được đầu tư hệ thống tưới tiết kiệm nước, 4.750 ha đạt chuẩn VietGAP và tương đương. Đây không chỉ là bước tiến kỹ thuật mà còn là “cuộc cách mạng tư duy”, từ làm nông theo kinh nghiệm sang làm nông theo chuẩn mực thị trường.
    |
 |
Nông dân xã Bình Thuận, tỉnh Sơn La trồng chè dưới tán cây mắc ca. |
Công tác truy xuất nguồn gốc, cấp mã số vùng trồng được triển khai bài bản, với 218 mã số đã được cấp. 31 sản phẩm nông sản được cấp văn bằng bảo hộ sở hữu trí tuệ, trong đó có 14 sản phẩm quả đặc trưng. Cùng với 8 vùng ứng dụng công nghệ cao và 59 sản phẩm OCOP chế biến từ quả, Sơn La đang khẳng định vị thế tiên phong trong xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ và thương hiệu.
Từ những con số tưởng chừng khô khan ấy, có thể thấy một điều: nông nghiệp Sơn La không còn là “người đi sau” mà đã bước vào hàng ngũ “người dẫn đầu” trong công cuộc hiện đại hóa nông thôn miền núi phía Bắc.
Vươn ra thế giới khi quả ngọt Sơn La chạm tới thị trường quốc tế
Sức sống mới của nông nghiệp Sơn La không chỉ gói gọn trong những phiên chợ vùng cao, mà đã vươn xa ra thị trường quốc tế. Từ năm 2017 đến nay, các sản phẩm trái cây chủ lực như xoài, nhãn, mận hậu, bơ, chanh leo… đã được xuất khẩu đến 15 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng sản lượng hơn 158.000 tấn.
Phía sau con số ấy là những nỗ lực không ngừng trong xúc tiến thương mại, kiểm soát chất lượng, truy xuất nguồn gốc, và xây dựng thương hiệu nông sản Sơn La. Mỗi lô hàng xuất khẩu là một “hộ chiếu xanh” mang hình ảnh vùng đất Sơn La đến với bạn bè quốc tế - vừa thể hiện chất lượng, vừa thể hiện bản lĩnh của người nông dân hiện đại.
    |
 |
Hợp tác xã Aratay Coffee có thu nhập ổn định từ triển khai mô hình nông lâm kết hợp. |
Không chỉ dừng ở trồng và bán tươi, tỉnh đã chú trọng đầu tư chế biến sâu, khâu quyết định giá trị gia tăng. Hiện toàn tỉnh có 560 cơ sở chế biến nông sản, trong đó 17 nhà máy quy mô lớn, gần 3.000 cơ sở sấy long nhãn và 40 kho lạnh. Mạng lưới này tạo nền tảng vững chắc để nông sản Sơn La không “rớt giá theo mùa”, mà có thể lưu trữ, chế biến, mở rộng chuỗi tiêu thụ quanh năm.
Phát triển bền vững, kết hợp nông, lâm nghiệp, du lịch và thương mại điện tử
Sơn La xác định, phát triển cây ăn quả không chỉ nhằm mục tiêu kinh tế, mà còn hướng tới phát triển bền vững, gắn sản xuất với du lịch, logistics và thương mại điện tử.
    |
 |
Các sản phẩm OCOP và nông sản đặc trưng, tiêu biểu của tỉnh. |
Trong những năm tới, tỉnh sẽ tiếp tục mở rộng vùng nguyên liệu tập trung, đẩy mạnh chuyển đổi số trong nông nghiệp, xây dựng vùng quả an toàn và tăng cường năng lực bảo quản, chế biến, logistics. Bên cạnh đó, các mô hình du lịch nông nghiệp đang dần hình thành, mang đến những “trải nghiệm mùa quả ngọt” cho du khách, nơi họ không chỉ tham quan, thưởng thức mà còn hiểu hơn về văn hóa bản địa, về lao động của người nông dân vùng cao.
Khi cây ăn quả trở thành “cầu nối” giữa kinh tế và văn hóa, giữa nông nghiệp và du lịch, Sơn La đã và đang đi đúng hướng trong chiến lược phát triển bền vững, lấy con người làm trung tâm, lấy thiên nhiên làm nền tảng, lấy văn hóa làm hồn cốt.
Từ tầm nhìn chiến lược đến khát vọng thịnh vượng tạo đòn bẩy cho sự no ấm vùng cao
Hơn cả những thành tích ấn tượng, điều đáng quý nhất là cuộc sống đổi thay của hàng vạn hộ nông dân. Những ngôi nhà khang trang mọc lên trên các triền đồi trước kia chỉ toàn sắn và ngô. Nhiều hộ dân người Thái, Mông, Dao… nay đã trở thành chủ hộ kinh doanh nông sản, có thu nhập ổn định, con cái được học hành đầy đủ, đời sống tinh thần phong phú.
Chính quyền tỉnh và các sở, ngành liên quan đã đồng hành cùng người dân từ khâu quy hoạch, tập huấn kỹ thuật đến hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm. Các hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới, doanh nghiệp và người nông dân gắn bó chặt chẽ trong chuỗi liên kết - giúp người dân không chỉ “làm nông” mà còn “làm kinh tế”, làm chủ cuộc sống trên chính mảnh đất quê hương.
    |
 |
Sơn La đã công nhận 9 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; duy trì 218 mã số vùng trồng, 8 mã số cơ sở đóng gói nông sản; có 29 sản phẩm nông sản mang địa danh được cấp văn bằng bảo hộ sở hữu trí tuệ. Toàn tỉnh hiện có 214 sản phẩm OCOP, khẳng định bước tiến vững chắc trong phát triển nông nghiệp hàng hóa, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của nông sản địa phương. |
Nhìn lại chặng đường gần 10 năm qua, có thể khẳng định: phát triển cây ăn quả chính là cuộc cách mạng nông nghiệp của Sơn La, một cuộc cách mạng mang dấu ấn tầm nhìn chiến lược, sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền và sự nỗ lực bền bỉ của người dân.
Từ một vùng đất khó, Sơn La đã vươn mình thành thủ phủ cây ăn quả của miền Bắc, là “điểm sáng” trong phát triển kinh tế nông nghiệp vùng trung du, miền núi. Thành công ấy không chỉ là câu chuyện của sản lượng, của xuất khẩu, mà là minh chứng cho ý chí vươn lên, cho tinh thần đổi mới sáng tạo, dám nghĩ dám làm của đồng bào các dân tộc Sơn La.
Trên hành trình ấy, mỗi mùa quả ngọt không chỉ mang lại thu nhập, mà còn mang lại niềm tin, niềm tin vào một tương lai no ấm, bền vững và thịnh vượng trên mảnh đất đầy nắng gió nơi miền Tây Bắc Tổ quốc.
Sự đổi thay nơi miền cao Sơn La không phải là chuyện ngẫu nhiên, đó là kết quả của sự kết hợp giữa tầm nhìn chiến lược của địa phương, nguồn lực của Chương trình Mục tiêu Quốc gia 1719 và các chương trình nông - lâm nghiệp, giảm nghèo truyền thống đã được triển khai đồng bộ. Chương trình 1719 (Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025) đã trở thành “bệ đỡ” quan trọng, giúp tháo gỡ những nút thắt trước đây: đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, hạ tầng thiết yếu, ổn định dân cư, đào tạo nghề và kết nối thị trường, những yếu tố trực tiếp quyết định khả năng chuyển đổi sản xuất của cộng đồng. Theo báo cáo của tỉnh, giai đoạn 2021-2025 Sơn La đã huy động và phân bổ nguồn lực lớn cho chương trình; tính đến giữa năm 2025 tỉnh đã giải ngân tỷ lệ cao so với kế hoạch, tạo nguồn lực cho hàng loạt công trình, dự án thiết thực.
    |
 |
Từ một vùng đất khó, Sơn La đã vươn mình thành thủ phủ cây ăn quả của miền Bắc, là “điểm sáng” trong phát triển kinh tế nông nghiệp vùng trung du, miền núi. |
Cụ thể, Chương trình Mục tiêu Quốc gia 1719 đã tập trung đầu tư vào những nhu cầu cấp bách nhất của người dân vùng cao: giải quyết đất ở, đất sản xuất cho hộ nghèo; đầu tư hệ thống cấp nước sinh hoạt; cải tạo giao thông nông thôn; xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng; và bố trí sắp xếp ổn định dân cư. Những kết quả sơ bộ ở tỉnh cho thấy, hàng nghìn hộ dân được hỗ trợ đất ở và đất sản xuất, hàng nghìn hộ có nước sinh hoạt an toàn và nhiều công trình hạ tầng thiết yếu đã hoàn thành, tất cả tạo nền tảng để người dân yên tâm chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đầu tư lâu dài vào cây ăn quả.
Điểm mấu chốt làm nên khác biệt là sự liên kết chính sách với phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp. Chương trình Mục tiêu Quốc gia 1719 không chỉ “phân phát” hạ tầng mà còn tạo điều kiện để người dân tham gia vào chuỗi giá trị: từ sản xuất theo tiêu chuẩn (VietGAP), cấp mã vùng trồng, đến liên kết với doanh nghiệp chế biến và kênh xuất khẩu. Nhờ vậy, cây ăn quả không còn là sản phẩm mùa vụ bán tươi với giá thấp, mà trở thành hàng hoá có thương hiệu, bảo hộ chỉ dẫn địa lý, có thị trường ổn định, điều đã góp phần giúp nhiều hộ dân thoát nghèo bền vững.
Ngoài 1719, một số chương trình trụ cột chính sách khác đã bổ trợ đắc lực cho quá trình này như: OCOP (Chương trình Mỗi xã một sản phẩm): giúp hình thành các sản phẩm chế biến, nâng giá trị nông sản, phát triển thương hiệu địa phương (Sơn La hiện có nhiều sản phẩm OCOP chế biến từ quả). Sự xuất hiện của mạng lưới OCOP đã góp phần giữ giá ổn định và tạo việc làm cho lao động nông thôn.
    |
 |
Giai đoạn 2020 - 2025, nông nghiệp Sơn La phát triển theo hướng sạch, hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao, thích ứng biến đổi khí hậu; sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 3,44%/năm. |
Chương trình 135 và các chính sách giảm nghèo vùng đặc biệt khó khăn: cung cấp nguồn lực trực tiếp cho các xã, thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng nhỏ, hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề, nền tảng quan trọng để hộ gia đình đủ điều kiện chuyển sang canh tác cây ăn quả, chăn nuôi hoặc mô hình kinh doanh nông nghiệp khác.
Chính sách Bảo vệ và Phát triển rừng, Quỹ DVMTR: ở các huyện có rừng, thu nhập từ dịch vụ môi trường rừng, hỗ trợ trồng, khoanh nuôi rừng đã cung cấp sinh kế bền vững, giảm tác động phá rừng để mở nương, đồng thời khuyến khích phát triển các mô hình nông - lâm kết hợp (ví dụ: trồng cây ăn quả ôn định bên rìa rừng, chăn nuôi gắn rừng). Đây là tiền đề cho phát triển “nông nghiệp xanh, lâm nghiệp bền vững”.
Về tác động thiết thực, sự kết hợp các chính sách trên đã mang lại những hiệu quả cụ thể: Ổn định dân cư và đất sản xuất giúp bà con yên tâm đầu tư cho vườn cây lâu năm; Cơ sở hạ tầng cấp nước, giao thông rút ngắn chi phí vận chuyển, giảm hao hụt sau thu hoạch; Đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật nâng cao năng lực canh tác theo tiêu chuẩn, giảm rủi ro dịch bệnh, tăng năng suất; Liên kết với doanh nghiệp, chế biến và thị trường OCOP nâng cao giá bán và tạo việc làm tại chỗ; Các chính sách bảo vệ rừng và dịch vụ môi trường bảo đảm sinh kế song hành với bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Tổng hoà những yếu tố này biến “cây ăn quả” thành đòn bẩy trực tiếp đưa hộ gia đình từ sản xuất tự cung tự cấp đến sản xuất hàng hoá có giá trị.
Từ tất cả những điều trên cho thấy, ý nghĩa của Chương trình Mục tiêu Quốc gia 1719 và các chương trình liên quan không chỉ đong bằng các con số (công trình, hộ được hưởng lợi, nguồn vốn) mà ở sự thay đổi tư duy: từ trông chờ trợ cấp sang năng động tiếp cận thị trường, từ canh tác manh mún sang liên kết chuỗi, từ sản xuất đơn lẻ sang xây dựng thương hiệu và du lịch nông nghiệp. Đó là thay đổi căn bản, bền vững, là lý do vì sao cây ăn quả ở Sơn La không chỉ làm giàu cho đất mà còn làm ấm lòng người.