Về vấn đề này, Luật sư Trần Đức Thắng – Giám đốc Công ty Luật TNHH Hùng Thắng, Đoàn Luật sư TP Hà Nội có ý kiến như sau:

leftcenterrightdel
 Luật sư Trần Đức Thắng .

I. Mất tiền gửi tại ngân hàng do lỗi của Chủ tài khoản - người gửi tiền

Theo điểm g khoản 2 Điều 5 Văn bản hợp nhất 15/VBHN-NHNN ngày 28/12/2020 quy định:

“Điều 5. Quyền và nghĩa vụ của chủ tài khoản thanh toán

..2. Chủ tài khoản thanh toán có các nghĩa vụ sau:

g) Chịu trách nhiệm về những thiệt hại do sai sót hoặc bị lợi dụng, lừa đảo khi sử dụng dịch vụ thanh toán qua tài khoản do lỗi của mình;

Như vậy, trường hợp số tiền trong tài khoản ngân hàng thiệt hại do sai sót hoặc bị lợi dụng, lừa đảo khi sử dụng dịch vụ thanh toán qua tài khoản do lỗi của chủ tài khoản thì chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm về thiệt hại xảy ra.

II. Mất tiền gửi tại ngân hàng không phải do lỗi của Chủ tài khoản - người gửi tiền

Trong một số trường hợp tiền gửi tại Ngân hàng của người gửi đột nhiên bị mất mà không phải do lỗi của Chủ tài khoản thì cần xác định ai là người có lỗi gây ra thiệt hại thì người đó sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho Chủ tài khoản. Cụ thể:

Căn cứ Điều 554 và Điều 557 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“Điều 554. Hợp đồng gửi giữ tài sản

Hợp đồng gửi giữ tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên giữ nhận tài sản của bên gửi để bảo quản và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi khi hết thời hạn hợp đồng, bên gửi phải trả tiền công cho bên giữ, trừ trường hợp gửi giữ không phải trả tiền công.

Điều 557. Nghĩa vụ của bên giữ tài sản

1. Bảo quản tài sản theo đúng thỏa thuận, trả lại tài sản cho bên gửi theo đúng tình trạng như khi nhận giữ.

2. Chỉ được thay đổi cách bảo quản tài sản nếu việc thay đổi là cần thiết nhằm bảo quản tốt hơn tài sản đó, nhưng phải báo ngay cho bên gửi biết về việc thay đổi.

3. Thông báo kịp thời cho bên gửi biết về nguy cơ hư hỏng, tiêu hủy tài sản do tính chất của tài sản đó và yêu cầu bên gửi cho biết cách giải quyết trong một thời hạn; nếu hết thời hạn đó mà bên gửi không trả lời thì bên giữ có quyền thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo quản và yêu cầu bên gửi thanh toán chi phí.

4. Phải bồi thường thiệt hại, nếu làm mất, hư hỏng tài sản gửi giữ, trừ trường hợp bất khả kháng.”.

Tại khoản 2, 3 Điều 10 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 quy định:

Điều 10. Trách nhiệm của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng

..2. Tạo thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền, bảo đảm thanh toán đủ, đúng hạn tiền gốc, lãi của khoản tiền gửi theo thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật.

3. Từ chối việc điều tra, phong tỏa, cầm giữ, trích chuyển tiền gửi của khách hàng, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của luật hoặc được sự chấp thuận của khách hàng.”.

Tại điểm g khoản 2 Điều 6 Văn bản hợp nhất 15/VBHN-NHNN ngày 28/12/2020 quy định:

“Điều 6. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

2. Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có nghĩa vụ:

g) Chịu trách nhiệm về những thiệt hại do sai sót hoặc bị lợi dụng, lừa đảo trên tài khoản thanh toán của khách hàng do lỗi của mình;

Như vậy, khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng tức là giữa hai bên đã ký kết một hợp đồng gửi giữ tài sản. Bên giữ tài sản, tức là bên ngân hàng phải có nghĩa vụ bảo quản tài sản đúng thỏa thuận, trả lại tài sản cho bên gửi theo đúng tình trạng như khi nhận giữ; phải bồi thường thiệt hại nếu những thiệt hại (mất mát, hư hỏng tài sản gửi giữ) do sai sót hoặc bị lợi dụng, lừa đảo trên tài khoản thanh toán của khách hàng do lỗi của mình.

Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”.

Như vậy, khi khách hàng bị mất tiền trong tài khoản ngân hàng mà không phải lỗi do khách hàng gây ra thì ngân hàng sẽ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách hàng. Đồng thời, người nào có hành vi xâm phạm đến tài sản hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Do đó, cần xác định rõ ai là người đã gây ra thiệt hại về tài sản thì là người đó sẽ phải bồi thường cho người bị thiệt hại.

Hương My (T/h)