Về vấn đề này, Luật sư Lê Anh Ngọc - Đoàn Luật sư TP Hà Nội có ý kiến như sau:

leftcenterrightdel
 

Luật sư Lê Anh Ngọc.

 

1. Quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2015, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển quyền tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Như vậy, về bản chất, việc lập di chúc thể hiện ý chí đơn phương của người để lại di sản. Theo đó, người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; Phân định phần di sản cho từng người thừa kế; Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; Giao nghĩa vụ cho người thừa kế; Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

Thứ hai, người lập di chúc phải là người thành niên minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép.

Thứ ba, về hình thức của di chúc: Theo quy định tại Điều 627 Bộ luật Dân sự năm 2015, di chúc có thể được lập dưới hai hình thức như sau:

Một là, di chúc miệng trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản.

Hai là, di chúc bằng văn bản dưới các dạng như:

– Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.

– Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.

– Di chúc bằng văn bản được lập tại văn phòng công chứng hoặc chứng thực tại Ủy ban nhân dân cấp xã .

Thứ tư, di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.

2. Quy định về hợp đồng tặng cho theo pháp luật hiện hành

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 457 Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng tặng cho là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận. Như vậy, về bản chất, tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, điều này hoàn toàn khác với di chúc.

Thứ hai, về chủ thể trong hợp đồng tặng cho: Bên tặng cho và bên nhận tặng cho phải đáp ứng đủ điều được thực hiện giao dịch dân sự theo quy định.

Thứ ba, về hình thức của hợp đồng tặng cho: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 459 Bộ luật Dân sự hợp đồng tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký (nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật).

Thứ tư, về hiệu lực của hợp đồng tặng cho

Một là, đối với tài sản được tặng cho là động sản thì hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Đối với động sản mà luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.

Hai là, đối với tài sản được tặng cho là bất động sản thì văn bản tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản.

Thứ năm, về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tặng cho 

Một là, trong trường hợp bên tặng cho cố ý tặng cho tài sản không thuộc sở hữu của mình mà bên được tặng cho không biết hoặc không thể biết về việc đó thì bên tặng cho phải thanh toán chi phí để làm tăng giá trị của tài sản cho bên được tặng cho khi chủ sở hữu lấy lại tài sản.

Hai là, bên tặng cho có nghĩa vụ thông báo cho bên được tặng cho khuyết tật của tài sản tặng cho. Trường hợp bên tặng cho biết tài sản có khuyết tật mà không thông báo thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra cho người được tặng cho; nếu bên tặng cho không biết về khuyết tật của tài sản tặng cho thì không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Như ở trên đã đề cập, có thể thấy mặc dù hợp đồng tặng cho hay di chúc đều là hình thức chuyển giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người khác. Tuy nhiên, xét về bản chất thì hai hình thức này lại khác nhau, cụ thể:

– Di chúc chỉ phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế, tức là thời điểm người có tài sản chết. Tính từ thời điểm đó, người có quyền thừa kế mới có quyền và nghĩa vụ đối với tài sản này.

– Hợp đồng tặng cho phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm tặng cho tài sản, khi hợp đồng tặng cho được pháp luật công nhận (nếu tài sản là bất động sản thì kể từ thời điểm người được tặng cho đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Như vậy, quyền của người tặng cho sẽ chấm dứt tại thời điểm đó.

Như vậy, việc lựa chọn của cá nhân có tài sản trong việc chuyển giao tài sản của mình cho người khác thông qua hợp đồng tặng cho hay di chúc còn tùy thuộc vào mục đích, khả năng và mong muốn của người có tài sản. Chẳng hạn: 

– Nếu một người muốn để lại tài sản của mình cho người khác sau khi bản thân chết thì lựa chọn hình thức lập di chúc.

– Nếu muốn tặng cho, chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác ngay khi đang còn sống thì lựa chọn hình thức lập hợp đồng tặng cho.

 

 

Hương My(T/h)