    |
 |
Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh điều hành nội dung phiên họp. |
Tiếp tục chương trình của Phiên họp thứ 49, sáng 22/9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Thương mại điện tử (TMĐT).
Thể chế hóa chính sách, khắc phục bất cập trong quản lý thương mại điện tử
Theo Tờ trình của Chính phủ, việc ban hành Luật TMĐT nhằm thực hiện các chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các Nghị quyết về phát triển kinh tế số, xã hội số và chuyển đổi số quốc gia (như Văn kiện Đại hội Đảng khóa XIII, Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW). TMĐT Việt Nam đã đạt quy mô lớn, xếp thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 5 trên thế giới về tốc độ tăng trưởng, với quy mô thị trường bán lẻ B2C đạt 25 tỉ USD vào năm 2024.
    |
 |
Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Sinh Nhật Tân phát biểu. |
Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện hành (chủ yếu là Nghị định số 52/2013/NĐ-CP và Nghị định số 85/2021/NĐ-CP) không còn đủ hiệu lực để điều chỉnh các vấn đề quan trọng mang tính đa ngành trong TMĐT.
Tờ trình nêu rõ nhiều tồn tại, hạn chế của hạ tầng pháp luật hiện hành. Đặc biệt, sự xuất hiện của các mô hình kinh doanh mới như nền tảng tích hợp đa dịch vụ (siêu ứng dụng) và hoạt động livestream bán hàng đang vượt ra ngoài phạm vi điều chỉnh hiện tại, gây khó khăn trong công tác quản lý, dẫn đến thất thu thuế, rủi ro bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền lợi người tiêu dùng.
Vấn đề hàng giả, hàng cấm, hàng xâm phạm sở hữu trí tuệ cũng chưa được kiểm soát triệt để do khó khăn trong việc định danh người bán. Hoạt động TMĐT xuyên biên giới phát triển nhanh nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro về hàng kém chất lượng và đe dọa sản xuất trong nước.
Dự thảo Luật TMĐT tập trung giải quyết các vấn đề này thông qua 6 chính sách cơ bản, trong đó có những nội dung quan trọng sau:
Quy định loại hình và trách nhiệm của chủ thể: Dự thảo Luật quy định 4 mô hình hoạt động TMĐT mới, bao gồm: Nền tảng TMĐT kinh doanh trực tiếp, Nền tảng TMĐT trung gian, Mạng xã hội hoạt động TMĐT, và Nền tảng tích hợp đa dịch vụ.
    |
 |
Các đại biểu tham dự phiên họp. |
Minh bạch và định danh người bán: Các nền tảng TMĐT phải đảm bảo minh bạch thông tin người bán và hàng hóa. Chủ quản nền tảng có trách nhiệm định danh người bán trong nước qua VNeID và người bán nước ngoài thông qua giấy tờ chứng minh tính hợp pháp.
Trách nhiệm đối với livestream và tiếp thị liên kết: Chủ quản nền tảng phải xác thực danh tính người livestream, công khai và thực hiện cơ chế kiểm soát theo thời gian thực đối với nội dung bán hàng livestream. Người bán và người livestream phải chịu trách nhiệm, không được cung cấp thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn.
Quản lý TMĐT xuyên biên giới: Chủ quản nền tảng nước ngoài nếu đạt ngưỡng giao dịch tại Việt Nam hoặc sử dụng tên miền “.vn”/ngôn ngữ tiếng Việt phải thành lập pháp nhân tại Việt Nam hoặc chỉ định pháp nhân được ủy quyền. Trường hợp ủy quyền, họ phải thực hiện ký quỹ tại ngân hàng thương mại tại Việt Nam để giải quyết bồi thường thiệt hại cho người mua.
Dịch vụ hỗ trợ TMĐT: Quy định trách nhiệm của các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ (hạ tầng kỹ thuật, logistics, thanh toán). Các đơn vị logistics phải có cơ chế kiểm tra và từ chối vận chuyển hàng hóa vi phạm pháp luật. Các dịch vụ thanh toán phải báo cáo giao dịch liên quan đến gian lận thuế, gian lận thương mại theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
Phát triển TMĐT xanh và bền vững: Khuyến khích đầu tư vào các dự án TMĐT đáp ứng tiêu chí xanh, bền vững, và áp dụng các dấu hiệu nhận diện “xanh”, “bền vững” cho hàng hóa, dịch vụ.
Dự thảo Luật cũng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho Chính phủ, Bộ Công Thương và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Về thủ tục hành chính (TTHC), dự thảo Luật đã giảm tổng số TTHC hiện hành từ 15 xuống 9 cho các mô hình cũ, nhưng bổ sung 9 TTHC mới cho các mô hình mới (mạng xã hội hoạt động TMĐT, nền tảng tích hợp đa dịch vụ, nền tảng TMĐT kinh doanh trực tiếp nước ngoài) nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý nhà nước. Các TTHC này dự kiến thực hiện trực tuyến toàn trình, không thu phí, nhằm cắt giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp…
Cần hoàn thiện tổng thể hệ thống pháp luật
Thẩm tra Tờ trình của Chính phủ, Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính (UBKTTC) cơ bản nhất trí với sự cần thiết ban hành dự án Luật TMĐT và các cơ sở chính trị, pháp lý, thực tiễn mà Chính phủ đã nêu…
    |
 |
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi phát biểu. |
UBKTTC nhấn mạnh nguyên tắc định hướng hoàn thiện Luật là phải thể chế hóa đầy đủ các Nghị quyết của Đảng (NQ 66, NQ 68, NQ 57), tránh tạo thêm quá nhiều tầng lớp trách nhiệm và gánh nặng chi phí tuân thủ không cần thiết cho doanh nghiệp. Luật cần tạo lập hành lang pháp lý thúc đẩy TMĐT phát triển, bảo đảm khả thi và phù hợp với xu thế chung của thế giới. Đồng thời, phải thực hiện chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền.
Mặc dù nhất trí về mục tiêu, UBKTTC nhận thấy dự thảo Luật được xây dựng theo hướng bao quát rộng, quy định tại Điều 1 (Phạm vi điều chỉnh), Điều 2 (Đối tượng áp dụng) và khoản 1 Điều 3 (Khái niệm "hoạt động TMĐT") còn rộng và có sự chồng lấn với quy định tại các Luật khác. UBKTTC lưu ý, các vấn đề như bảo vệ người tiêu dùng, chống thất thu thuế, kiểm soát hàng giả/hàng cấm không thể giải quyết chỉ bằng Luật TMĐT mà cần hoàn thiện tổng thể hệ thống pháp luật.
UBKTTC đề nghị rà soát và làm rõ các vấn đề sau:
Tính thống nhất và chồng chéo: Cần làm rõ những tồn tại, hạn chế, và "khoảng trống" trong các luật hiện hành mà chỉ Luật TMĐT mới có thể khắc phục. Tuyệt đối không quy định lại các nội dung đã có tại luật chung (như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại) hoặc luật quản lý ngành, lĩnh vực khác (như Luật An ninh mạng, Luật Chuyển đổi số) để tránh mâu thuẫn, xung đột pháp luật và phát sinh TTHC không cần thiết.
    |
 |
Các đại biểu tham dự phiên họp. |
Phạm vi điều chỉnh và nguyên tắc áp dụng: Đề nghị hoàn thiện quy định, xác định rõ ranh giới, nội hàm "hoạt động TMĐT" được điều chỉnh bởi Luật này so với các ngành, lĩnh vực khác. Cần quy định rõ nguyên tắc áp dụng pháp luật, làm rõ mối quan hệ giữa Luật TMĐT với các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh ngành, lĩnh vực đặc thù (như ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán).
Rà soát ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện: Nghiên cứu điều chỉnh quy định tại Phụ lục 4 của Luật Đầu tư về hoạt động TMĐT là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, đảm bảo sự phù hợp.
Giao kết hợp đồng: Rà soát, làm rõ quy định tương ứng với đặc thù của việc giao kết mua bán hàng hóa so với giao kết cung cấp dịch vụ, vì bản chất hai hoạt động này khác nhau.
Ngoài ra, Thường trực UBKTTC cũng yêu cầu bổ sung thuyết minh, so sánh, và minh chứng rõ hơn về mức độ tương thích của dự thảo Luật với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đồng thời bổ sung đánh giá về dự kiến nguồn lực tài chính để đảm bảo tính đầy đủ của hồ sơ…