Về phạm vi điều chỉnh, Nghị quyết này hướng dẫn áp một số quy định tại các điều 60, 62, 63, 64, 67 và 68 của BLHS số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt, hoãn chấp hành hình phạt tù và tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
Về một số quy định về thời hiệu thi hành bản án tại Điều 60 của BLHS, dự thảo Nghị quyết nêu rõ: Thời hiệu thi hành bản án quy định tại Điều 60 của BLHS là thời hiệu thi hành bản án hình sự về quyết định hình phạt của bản án hình sự. Đối với các quyết định về bồi thường thiệt hại, án phí và các quyết định khác về tài sản của bản án hình sự, thì việc xác định thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Trường hợp một người bị xét xử nhiều tội trong cùng một vụ án và được tổng hợp hình phạt tại quyết định của bản án thì căn cứ vào hình phạt chung đã được tổng hợp để tính thời hiệu thi hành bản án.
Trường hợp trong bản án có nhiều người bị kết án thì căn cứ vào mức hình phạt đối với từng người cụ thể để tính thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với họ.
Trường hợp trong bản án có tổng hợp hình phạt của nhiều bản án thì căn cứ vào mức hình phạt trong mỗi bản án cụ thể để tính thời hiệu thi hành mỗi bản án hình sự cụ thể đó mà không phải căn cứ vào mức tổng hợp hình phạt chung.
Trường hợp người bị kết án cố tình trốn tránh, nhưng cơ quan Công an không ra quyết định truy nã hoặc có ra quyết định truy nã, nhưng không đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (trừ những việc không thể thực hiện được, như phải dán ảnh kèm theo, nhưmg không có ảnh), thì thời gian trốn tránh vẫn được tính để xác định thời hiệu thi hành bản án hình sự.
|
|
Quang cảnh một phiên toà hình sự. (Ảnh minh hoạ) |
Trường hợp người bị kết án phạt tù được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thì thời hạn được hoãn hoặc tạm đình chỉ không được trừ vào thời hiệu thi hành bản án. Thời hiệu thi hành bản án hình sự được tính kể từ ngày hết hạn hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù và căn cứ vào mức hình phạt tù còn lại mà người bị kết án chưa chấp hành. Trường hợp người bị kết án phạt tù được Tòa án ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù để áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh thì thời hạn này được trừ vào thời hiệu thi hành bản án.
Về một số quy định về miễn chấp hành hình phạt tại Điều 62 của BLHS, dự thảo Nghị quyết quy định: Người bị kết án chưa chấp hành hình phạt quy định tại khoản 2, 3 Điều 62 của BLHS là người đã có quyết định thi hành án phạt tù nhưng được hoãn chấp hành án phạt tù.
Chấp hành được một phần hình phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 62 của BLHS là đã chấp hành được ít nhất một phần tư nghĩa vụ phải thi hành án.
Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế cải tạo tốt quy định tại khoản 6 Điều 62 của BLHS là người chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; hối cải, tích cực lao động, học tập và được UBND cấp xã nơi người chấp hành án cư trú có văn bản xác nhận.
Các nghĩa vụ dân sự do Tòa án tuyên trong bản án được xem xét miễn theo quy định của pháp luật về miễn, giảm thi hành án dân sự đối với khoản tiền phạt, án phí khi người đó có đủ các điều kiện.
Đối với một số quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù tại Điều 67 của BLHS, theo dự thảo Nghị quyết, người chấp hành hình phạt tù được xem xét hoãn chấp hành hình phạt tù khi có đủ các điều kiện đó là: Thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 67 của BLHS. Trường hợp người chấp hành án phạt tù là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi (không phân biệt là con đẻ hay con nuôi), nếu họ bị xử phạt tù lần đầu.
Trường hợp người chấp hành án phạt tù là người bị kết tù không phải về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiệm trọng và là người duy nhất trong gia đình đang lao động có thu nhập, nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì gia đình họ sẽ gặp khó khăn đặc biệt trong cuộc sống (như không có nguồn thu nhập nào khác, không có ai chăm nom, nuôi dưỡng... những người thân thích của họ trong gia đình mà không có khả năng lao động).
Do nhu cầu công vụ quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 67 của BLHS là trường hợp cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương cần thiết phải có mặt của họ để thực hiện công vụ nhất định và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù ngay thì chưa có người thay thế họ.
Có nơi cư trú rõ ràng; sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, không có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn.
Tòa án cũng có thể cho người chấp hành án phạt tù thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 67 của BLHS và không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại Khoản 1 Điều này được hoãn chấp hành hình phạt tù, nhưng phải xem xét rất chặt chẽ.