Thực hiện chức năng kiểm sát, nhận thấy còn nhiều sai phạm trong lĩnh vực công tác kiểm sát việc tha tù trước thời hạn có điều kiện, VKSND tối cao (Vụ 8) vừa ban hành Hướng dẫn số 31/HĐ- VKSTC, hướng dẫn một số nội dung kiểm sát việc tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Kiểm sát việc lập hồ sơ đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện
VKSND cấp tỉnh kiểm sát việc lập hồ sơ đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện bảo đảm đúng điều kiện, trình tự, thủ tục theo quy định của Điều 66, Điều 106 Bộ luật Hình sự; Điều 368 Bộ luật Tố tụng hình sự; Mục 3 Chương III Luật Thi hành án hình sự; Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao (Nghị quyết số 01/2018). Cần lưu ý các nội dung cụ thể:
Về điều kiện: Đối tượng đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện phải là trường hợp phạm tội lần đầu theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 66 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), được hướng dẫn chi tiết tại khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 01/2018: “Được coi là phạm tội lần đầu … nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Trước đó, chưa phạm tội lần nào; b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích”.
Quy định “trước đó chưa phạm tội lần nào” tại điểm a khoản 2 Điều 2 nêu trên cần được hiểu rằng, trước đó, người này chưa thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc hành vi nguy hiểm cho xã hội do người này thực hiện chưa cấu thành tội phạm quy định tại Bộ luật hình sự.
Trường hợp một người “phạm tội 02 lần trở lên” (mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại BLHS) hoặc bị kết án 02 tội trong cùng một bản án (đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự) thì không được coi là “phạm tội lần đầu”.
Ví dụ: Vũ Văn A phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”. Áp dụng Điều 321; khoản 1 Điều 322 BLHS, xử phạt Vũ Văn A: 24 tháng tù về tội “Đánh bạc” và 18 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 42 tháng tù. Trong trường hợp này, A bị kết án đối với 02 tội trong cùng một bản án nên A không đủ điều kiện được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện, mặc dù trước đó A chưa phạm tội và chưa từng bị kết án.
Đối với các trường hợp đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm trọng trở lên phải thuộc trường hợp đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mới được xét, đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện khi đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật.
Đối với các trường hợp đang chấp hành án phạt tù về tội phạm ít nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1 Điều 66 BLHS, được hướng dẫn chi tiết tại Điều 3 Nghị quyết số 01/2018 thì phải thuộc trường hợp bị xét xử, tuyên án về tội phạm ít nghiêm trọng quy định tại Điều 9 BLHS “là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là … phạt tù đến 03 năm”.
Ví dụ: Trường hợp Nguyễn Văn C, phạm tội “Tổ chức đánh bạc”, bị kết án 02 (hai) năm tù theo khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự, thì không thuộc trường hợp người đang chấp hành án phạt tù về tội ít nghiêm trọng, bởi mức cao nhất của khung hình phạt này là 05 năm tù. Trong trường hợp này, nếu C chưa được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì C không đủ điều kiện được xét tha tù trước thời hạn có điều kiện[3].
Hướng dẫn số 31 lưu ý: Đối với các trường hợp đủ điều kiện được tha tù trước thời hạn có điều kiện nhưng không được cơ quan có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị thì VKSND có thẩm quyền phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền, có trách nhiệm lập hồ sơ đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện cho phạm nhân (quy định tại khoản 1 Điều 19 Quy chế số 501) và phải có quan điểm trước Hội đồng xét tha tù trước thời hạn có điều kiện. Nếu cơ quan có thẩm quyền không thực hiện hoặc không chấp nhận, yêu cầu VKSND cấp tỉnh báo cáo ngay (Kèm theo danh sách trích ngang và hồ sơ, tài liệu liên quan) về VKSND tối cao (Vụ 8) để xem xét, kiến nghị với Cơ quan quản lý thi hành án hình sự và Tòa án nhân dân tối cao, kịp thời giải quyết theo quy định của pháp luật.
Kiểm sát việc xét, quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện
Tha tù trước thời hạn có điều kiện được áp dụng đối với người đang chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật Hình sự thuộc trường hợp phạm tội lần đầu, quá trình cải tạo có nhiều tiến bộ, đã chấp hành án được ít nhất là một phần hai mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 15 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn, đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và án phí có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật thì được xem xét, đề nghị tha tù trước thời hạn.
Tuy nhiên, thực tiễn công tác kiểm sát xét quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện thấy một số VKSND cấp tỉnh nhận thức chưa đúng về xét tha tù trước hạn có điều kiện, đã yêu cầu loại phạm nhân khỏi danh sách đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện hoặc không chấp nhận tha tù trước hạn có điều kiện, cá biệt có VKSND cấp tỉnh ban hành kháng nghị Quyết định tha tù trước hạn với lý do: “Thời gian thử thách còn dài, tha ra không bảo đảm trật tự an toàn xã hội,…” hoặc “vừa được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù” hoặc “cần có thêm thời gian thử thách…” là việc xem xét thiếu chặt chẽ, thiếu cơ sở pháp lý, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đang chấp hành án phạt tù khi họ đủ điều kiện, thỏa mãn các tiêu chí theo quy định tại Điều 66 Bộ luật Hình sự, Điều 368 Bộ luật Tố tụng hình sự, Mục 3 Chương III Luật Thi hành án hình sự, Nghị quyết số 01/2018.
Việc tham gia phiên họp Hội đồng xét tha tù trước thời hạn có điều kiện
Căn cứ khoản 6 Điều 368 BLTTHS, tại phiên họp xét tha tù trước thời hạn có điều kiện, Kiểm sát viên được cử tham gia phiên họp trình bày quan điểm của Viện kiểm sát về việc đề nghị xét tha tù trước hạn có điều kiện của cơ quan đề nghị và việc tuân thủ pháp luật trong xét, quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Kết thúc phiên họp, yêu cầu Kiểm sát viên phải kiểm tra Biên bản phiên họp để xác định tính có căn cứ về nội dung, diễn biến phiên họp và quyết định của Hội đồng về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với từng phạm nhân. Yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung (nếu có) vào Biên bản phiên họp.
Kiểm sát việc ban hành và gửi quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện
Thực hiện nhiệm vụ quyền hạn được giao theo quy định tại Điều 368 BLTTHS, để kiểm sát tính có căn cứ và chính xác về nội dung và hình thức quyết định, thời hạn gửi quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, yêu cầu VKSND các cấp tập trung kiểm sát nội dung sau:
Kiểm sát chặt chẽ nội dung quy định tại khoản 8 Điều 368 BLTTHS về nội dung Tòa án phải gửi quyết định cho “Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp” tại phần ghi: “nơi nhận” của quyết định tha tù trước hạn nhằm bảo đảm về thời hạn xem xét trong thực hiện thẩm quyền kháng nghị của VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp cao (đối với VKS cùng cấp là 07 ngày, đối với VKS cấp trên trực tiếp tiếp là 15 ngày).
Thời gian qua, tại quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện (phần nơi nhận) của nhiều TAND cấp tỉnh đã gửi về VKSND cấp trên trực tiếp là VKSND tối cao hoặc Vụ 8 VKSND tối cao. Việc gửi quyết định của TAND cấp tỉnh như vậy là thực hiện chưa đúng theo thẩm quyền về trình tự tố tụng đối với các quyết định sơ thẩm của TAND, dẫn tới việc chậm phát hiện vi phạm để thực hiện quyền kháng nghị theo quy định tại khoản 2 Điều 337 BLTTHS.
Căn cứ Luật Tổ chức VKSND và Quy chế về tổ chức và hoạt động của VKSND cấp cao (ban hành kèm theo Quyết định số 26/QĐ-VKSTC-VC ngày 20/11/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao), việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm đối với quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh thuộc thẩm quyền của VKSND cấp cao. Do vậy, sau khi nhận được quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, VKSND cấp tỉnh tiến hành kiểm sát về nội dung và hình thức của quyết định: Nếu phần nơi nhận có nội dung gửi về “VKSND tối cao” hoặc “Vụ 8 VKSND tối cao”, thì VKSND cấp tỉnh phải thực hiện quyền kiến nghị, yêu cầu TAND ban hành quyết định đính chính (sửa chữa) quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện theo quy định tại Điều 365 BLTTHS.
Ngoài những nội dung trên, Hướng dẫn số 31 nêu rõ, yêu cầu về nội dung báo cáo kết quả kiểm sát việc tha tù trước thời hạn có điều kiện cần thực hiện:
Về báo cáo kết quả việc lập hồ sơ, xét quyết định tha tù trước thời hạn:
Yêu cầu VKSND cấp tỉnh báo cáo đầy đủ nội dung: Tổng số hồ sơ trại giam, Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh đề nghị tha tù; Tổng số hồ sơ VKSND cấp tỉnh chấp nhận đề nghị tha tù; Tổng số hồ sơ VKSND cấp tỉnh không chấp nhận (Lập danh sách trích ngang theo mẫu gửi kèm tại Hướng dẫn này); Tổng số hồ sơ VKSND cấp tỉnh loại, lý do; Quan điểm của VKSND về kết quả xét tha tù trước thời hạn có điều kiện. Kết quả tổng số hồ sơ TAND cấp tỉnh quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện (trong đó, nêu cụ thể trại giam bao nhiêu trường hợp, trại tạm giam, nhà tạm giữ Công an cấp huyện bao nhiêu trường hợp).
Về báo cáo kết quả kiểm sát thi hành quyết định tha tù trước thời hạn:
Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, VKSND cấp tỉnh sao gửi quyết định đó cho VKSND cấp huyện nơi người được tha tù trước thời hạn có điều kiện về cư trú, đồng thời sao gửi quyết định (gửi kèm Báo cáo tại mục 5.1 của Hướng dẫn) về VKSND tối cao (Vụ 8).
Báo cáo kết quả kiểm sát việc tổ chức công bố quyết định tha tù, trong đó lưu ý việc niêm yết danh sách phạm nhân được tha tù trước thời hạn có điều kiện; việc cấp giấy chứng nhận tha tù trước thời hạn có điều kiện và thời gian thử thách còn lại được ghi trong giấy chứng nhận tha tù nêu trên của trại giam, trại tạm giam và cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện; nếu phát hiện việc tổ chức công bố, cấp giấy chứng nhận và thời hạn thử thách ghi tại giấy chứng nhận trái quy định tại khoản 1 Điều 59 Luật Thi hành án hình sự, yêu cầu báo cáo ngay về VKSND tối cao (Vụ 8) để có hướng dẫn kịp thời.
|