Nội dung vụ án thể hiện, nguyên đơn bà Phan Thị C khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị G trả lại 578,2m2 thuộc thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26 tại thôn K, xã T, huyện N, tỉnh Q; yêu cầu hủy một phần Giấy CNQSD đất cấp cho hộ bà Phan Thị C đối với thửa đất 175b, tờ bản đồ số 26, diện tích 1.040m2; hủy một phần Giấy CNQSD đất cấp cho bà Nguyễn Thị G đối với thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26, diện tích 2.400m2.
Quá trình giải quyết vụ án cho thấy, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2023/DS-ST ngày 23/2/2023 của TAND tỉnh Q, quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà C về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy quyết định cá biệt” với bị đơn là bà G.
Hủy một phần Giấy CNQSD đất cấp cho bà G đối với thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26, diện tích 2.400m2; hủy một phần Giấy CNQSD đất cấp cho hộ bà C đối với thửa đất 175b, tờ bản đồ số 26, diện tích 1.040m2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của bà C về việc buộc bà G trả lại cho bà C diện tích 578,2m2 đất tranh chấp thuộc thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26. Chi phí xem xét, thẩm định, định giá tài sản và đo vẽ phần đất tranh chấp bà G phải hoàn trả cho bà C là 7,5 triệu đồng.
Sau đó, bà G kháng cáo bản án sơ thẩm. Ngày 26/3/2023, Viện cấp cao 2 ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐVKS-DS theo hướng hủy Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Q giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 165/2023/DS-PT ngày 18/7/2023 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận kháng cáo của bị đơn; chấp nhận kháng nghị của Viện cấp cao 2.
Trong vụ án trên, theo Viện cấp cao 2 có một số nội dung cần rút kinh nghiệm. Cụ thể, Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án dân sự "Tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy quyết định cá biệt” là đúng quy định tại khoản 5 Điều 26 và Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Tuy nhiên, tại phiên toà sơ thẩm nguyên đơn rút yêu cầu về việc buộc bà G trả lại diện tích 578,2m2 đất tranh chấp thuộc thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26 và Toà án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 2 Điều 244 BLTTDS, đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 BLTTDS, khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết. Trong vụ án dân sự, việc hủy quyết định cá biệt trái pháp luật là hệ quả của việc giải quyết tranh chấp về dân sự và là quyền của Tòa án, không phụ thuộc vào việc đương sự có yêu cầu. Việc xác định quyết định cá biệt là trái pháp luật phải căn cứ vào việc giải quyết tranh chấp về dân sự.
Trong vụ án này, nguyên đơn rút yêu cầu về việc buộc bà G trả lại diện tích 578,2m2 đất tranh chấp thuộc thửa đất 175a. Như vậy, các bên không còn tranh chấp về dân sự nên việc Tòa án cấp sơ thẩm hủy quyết định cá biệt không xuất phát từ việc giải quyết tranh chấp về dân sự là không đúng quy định tại khoản 1 Điều 34 BLTTDS.
Về thu thập chứng cứ: Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định, đo vẽ diện tích cụ thể thửa đất số 175a của bà G và thửa đất số 175b, tờ bản đồ số 26 của bà C đang quản lý sử dụng theo hiện trạng, lồng ghép với sơ đồ, vị trí, diện tích đất đã được cấp Giấy CNQSD đất. Sơ đồ phải thể hiện rõ sự chênh lệch, chồng chéo giữa diện tích đất của hộ bà C và hộ bà G đang quản lý sử dụng theo hiện trạng thực tế so với diện tích đã được cấp Giấy CNQSD đất.
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn giải quyết vụ án dân sự trong khi đã đình chỉ xét xử đối với yêu cầu dân sự và tuyên hủy một phần đối với hai Giấy CNQSD đất là không đúng pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; buộc bà G phải trả cho bà C chi phí xem xét, thẩm định, định giá tài sản và đo vẽ phần đất tranh chấp 7,5 triệu đồng là vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 157 BLTTDS. Nguyên đơn đã rút yêu cầu tranh chấp quyền sử dụng đất thì nguyên đơn phải chịu chi phí xem xét, thẩm định, định giá tài sản.