Cụ thể, cử tri nêu câu hỏi: Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì người bào chữa có quyền được báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác, nhưng chưa có quy định về việc người bào chữa phải thông báo cho cơ quan tố tụng nếu vắng mặt tại buổi làm việc. Đề nghị nghiên cứu trình bổ sung vào Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về trường hợp người bào chữa không đến làm việc theo lịch đã được báo trước thì phải thông báo lại bằng văn bản và hẹn ngày đến làm việc để cơ quan tố tụng chủ động trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án.
Về nội dung này, VKSND tối cao trả lời như sau: Điều 79 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) quy định về trách nhiệm thông báo cho người bào chữa: “1. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia theo quy định của Bộ luật này. 2. Trường hợp người bào chữa đã được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước mà không có mặt thì hoạt động tố tụng vẫn được tiến hành, trừ trường hợp quy định tại Điều 291 của Bộ luật này”.
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 421 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì “1. Khi lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng, hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo trước thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung cho người bào chữa, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. 2. Việc lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, hỏi cung bị can phải có mặt người bào chữa hoặc người đại diện của họ…”.
Theo các quy định nêu trên thì trường hợp người bào chữa đã được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác mà người bào chữa không có mặt thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn có thể tiến hành các hoạt động tố tụng. Riêng trường hợp người bào chữa không có mặt tại phiên tòa để bào chữa cho người mà mình đã nhận bào chữa thì Tòa án phải hoãn phiên tòa (trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa); nếu người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử; trường hợp chỉ định người bào chữa mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.
Ngoài ra, đối với vụ án mà người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi thì Bộ luật Tố tụng hình sự quy định phải bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi; phải chỉ định người bào chữa trong trường hợp người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi không có người bào chữa hoặc người đại diện của họ không lựa chọn người bào chữa; việc lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, hỏi cung bị can phải có mặt người bào chữa hoặc người đại diện của họ...
Đồng thời, tại khoản 3 Điều 7 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi cũng đã có quy định: “… người bào chữa... của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi khi nhận được thông báo phải thông tin kịp thời về việc có mặt và tham gia tố tụng của họ cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng biết”.
Như vậy, theo trình tự tố tụng, khi pháp luật quy định sự có mặt của người bào chữa tham gia hoạt động tố tụng thì cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo để người bào chữa tham gia; nếu họ không tham gia được thì hoạt động tố tụng vẫn phải được tiến hành đúng theo Điều 79 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 3 Điều 7 Thông tư liên tịch số 06/2018 nêu trên để bảo đảm tiến độ, thời hạn giải quyết vụ án theo luật định. Trường hợp người bào chữa có ý kiến nào khác thì có thể trình bày với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng để xem xét, giải quyết theo quy định pháp luật.