Tại Chỉ thị số 01/CT-VKSTC ngày 17/12/2019 của Viện trưởng VKSND tối cao; Kế hoạch số 01/KH-VKS ngày 2/1/2020 của VKSND tỉnh Gia Lai về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2020 có nội dung: Trọng tâm là các hoạt động “Số hóa hồ sơ vụ án hình sự”; thực hiện việc công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa và nâng cao chất lượng tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm. 

Tuy nhiên, nhiệm vụ này còn mới, chưa có quy chế, quy định hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng. Khi áp dụng số hóa có cần phải áp dụng tất cả các vụ án hay không? Xây dựng hồ sơ số hóa có cần thiết phải scan hết tất cả các tài liệu như hồ sơ gốc hay không? Việc phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong áp dụng số hóa hồ sơ vụ án hình sự như thế nào?..., tất cả những vấn đề trên chưa được thực hiện đồng bộ và chất lượng, hiệu quả đạt được ở nhiều mức độ khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện cơ sở vật chất của từng đơn vị; thời gian scan văn bản để tạo lập hồ sơ số hóa, kiến thức về tin học, khả năng sử dụng và vận hành các thiết bị liên quan, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm thực hiện…

leftcenterrightdel
Toàn cảnh phiên tòa áp dụng số hóa hồ sơ vụ án tại đơn vị.

Qua tìm hiểu, tham dự việc thực hiện “số hóa hồ sơ vụ án” và công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa mà đơn vị phối hợp tôi nhận thấy phương pháp này mang lại hiệu quả rất cao, góp phần không nhỏ vào nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, chủ yếu nhất là trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử như: Làm tinh gọn hồ sơ vụ án, thuận lợi cho quá trình nghiên cứu, khai thác hồ sơ của Kiểm sát viên, giúp Kiểm sát viên chủ động và linh hoạt hơn trong quá trình tham gia thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử…

Tuy nhiên cách thức, phương thức sử dụng thế nào trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử để nâng cao hiệu quả, hiệu lực và đảm bảo đúng quy định của BLTTHS trong việc công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa góp phần bảo đảm tính khách quan khi kiểm chứng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bảo đảm tính thuyết phục trong quá trình tranh luận, đối đáp của Kiểm sát viên; để đấu tranh đối với các trường hợp bị cáo có biểu hiện quanh co, chối tội hoặc từ chối khai báo tại phiên tòa, cũng như các quan điểm trái chiều do những người tham gia tố tụng khác đưa ra được áp dụng thống nhất không vi phạm về thủ tục tố tụng thì chưa có văn bản nào hướng dẫn.

Trong khi chờ hướng dẫn, Quy chế phối hợp của VKSND tối cao với các cơ quan tư pháp để tạo điều kiện đảm bảo triển khai thực hiện việc “Số hóa hồ sơ vụ án” và công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa đúng theo quy định của pháp luật đồng thời nâng cao được hiệu quả áp dụng, tôi xin đưa ra một số quan điểm sau:

Việc số hóa hồ sơ vụ án nên lựa chọn những vụ án rất nghiêm trọng hoặc đặt biệt nghiêm trọng, những vụ án phức tạp có nhiều người tham gia… Vì để làm và thực hiện hồ sơ số hóa mất rất nhiều công sức của cán bộ, kiểm sát viên trong khi khối lượng công việc ngày càng nhiều. Đối với những vụ án thông thường ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, chứng cứ rõ ràng, người phạm tội thành khẩn khai báo,… thì khuyến khích Kiểm sát viên nên áp dụng số hóa để thử nghiệm, rút kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào giải quyết hồ sơ vụ án hình sự, qua đó trao dồi kinh nghiệm để có thể hoàn thiện tốt kỹ năng nghiệp vụ của bản thân.

Khi lựa chọn, áp dụng số hóa ngay từ đầu kiểm sát viên phải vận dụng triệt để quyền năng pháp lý của mình được quy định tại Điều 165, Điều 166 BLTTHS, cùng song hành với Cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra, làm rõ tội phạm và người phạm tội một cách khách quan, toàn diện, đúng quy định. Kiểm sát viên trực tiếp được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra phải kiểm sát chặt chẽ tiến trình, hoạt động điều tra; nắm chắc các quy định về phần chung và phần các tội phạm quy định trong BLHS và các văn bản hướng dẫn về ghi âm ghi hình…, khai thác toàn diện các nội dung, tình tiết có trong hồ sơ vụ án, từ đó so sánh, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ điện tử, phác họa toàn diện những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án để đề ra yêu cầu điều tra, yêu cầu Điều tra viên kiểm tra, xác minh, làm rõ từng vấn đề.

Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Điều tra viên trong thu thập, đánh giá chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội, tham gia đầy đủ các hoạt động thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra như: Khám nghiệm hiện trường, khám xét, nhận dạng, hỏi cung, đối chất thực hiện ghi âm, ghi hình đảm bảo chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thu thập, thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS, kịp thời phát hiện vi phạm trong việc thu thập các chứng cứ điện tử, đề xuất biện pháp yêu cầu, kiến nghị khắc phục.

Trong giai đoạn truy tố, Kiểm sát viên phải hệ thống đầy đủ các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội của bị can đặt biệt là các chứng cứ có chứa dữ liệu điện tử, kiểm tra các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự đã được chứng minh đầy đủ hay chưa, có cần bổ sung tài liệu, chứng cứ nào hay không, tài liệu có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để truy tố bị can ra Tòa hay không. Cần thiết, Kiểm sát viên có thể tự mình trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định pháp luật nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo đúng quy định nhằm loại trừ những hậu quả tiêu cực có thể phát sinh từ những sơ xuất, sai lầm hoặc các vấn đề chưa phát hiện, chưa chứng minh được trong quá trình điều tra.

Trước khi tham gia phiên tòa Kiểm sát viên cần nắm chắc hồ sơ vụ án đã được số hóa. Dự kiến trường hợp bị cáo chối tội thì sử dụng chứng cứ nào để buộc tội. Đối với các vụ án phức tạp nên thông qua ý kiến của lãnh đạo Viện. Có hay không trình chiếu chứng cứ nhạy cảm, các chứng cứ “mật”. 

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên khi công bố chứng cứ tài liệu phải tuân theo quy định tại các điều 308,312,315 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như: Nếu người được xét hỏi có mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên không được công bố lời khai của họ trong các giai đoạn điều tra, truy tố. Chỉ được công bố lời khai trong giai đoạn điều tra truy tố khi thuộc một trong các trường hợp: lời khai người được xét hỏi tại phiên tòa mâu thuẫn với lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố; người được xét hỏi không khai tại phiên tòa hoặc không nhớ lời khai của mình; người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết hoặc người được xét hỏi đề nghị công bố lời khai của họ…, ngoài ra những tài liệu mật khi công bố phải được giải mật, được phép của cơ quan có thẩm quyền cho phép.

Trong quá trình tham gia phiên tòa Kiểm sát viên cũng cần tập trung chú ý theo dõi diễn biến của phiên tòa, tích cực chủ động tham gia xét hỏi để kịp thời đưa ra các chứng cứ điện tử. Việc trình chiếu phải logic, không trùng lắp, nên highlight (nổi bật) những đoạn văn bản, lời khai chính không nên trình chiếu quá dài, đồng thời phân tích từng nội dung vấn đề diễn giải để chứng minh, đảm bảo sự thật khách quan, chứng cứ đến đâu thì kết tội đến đó. 

Đối với các vụ án phức tạp, nhiều mâu thuẫn, bị cáo chối tội… thì khi trình chiếu phải phân tích cụ thể các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án để làm cơ sở bảo vệ vững chắc Cáo trạng đã truy tố của Viện kiểm sát là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cũng như bỏ lọt tội phạm, bác bỏ các vấn đề mâu thuẫn, bất hợp lý…

Với mỗi bị cáo đều có nguyên nhân, điều kiện phạm tội khác nhau. Vì vậy, khi trình chiếu chứng cứ điện tử cần phân tích vấn đề trên theo hướng đi sâu vào từng vụ án cụ thể. Đối với các vụ án trọng điểm, án dư luận quan tâm hay phiên tòa rút kinh nghiệm Kiểm sát viên nên lưu ý tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến những người tham dự phiên tòa, đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương và công tác phòng chống tội phạm trên địa bàn. Qua đó, kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

Việc Số hóa hồ sơ vụ án hình sự của Kiểm sát viên là một trong những yêu cầu của cải cách tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Chứng cứ điện tử mà Kiểm sát viên trình chiếu là cơ sở để Hội đồng xét xử ban hành một bản án thấu tình, đạt lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, có sức thuyết phục cao. Qua đó, nâng cao được vị thế, vai trò và hình ảnh của người cán bộ kiểm sát trong lòng người dân, củng cố được niềm tin của người dân vào sự công bằng của pháp luật.

Vì vậy mong trong thời gian sớm nhất liên ngành tư pháp trung ương cần sớm có văn bản hướng dẫn liên ngành về quy trình số hoá, bảo mật, lưu trữ, khai thác, chia sẻ, sử dụng tài liệu số hoá, cũng như cung cấp trang thiết bị, phương tiện, tài chính cho việc số hóa để nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong công tác xét xử các vụ án hình sự.

Lê Xuân Quang