Vùng cao, nơi núi non chia cắt, nắng mưa khắc nghiệt, cuộc sống người dân trên mảnh đất Điện Biên từng gắn với nương ngô, lúa rẫy và cái đói dai dẳng. Thế nhưng từ khi hệ thống chính trị địa phương xác định rõ: “giảm nghèo không chỉ là hỗ trợ trước mắt mà phải tạo sinh kế, thay đổi tư duy sản xuất”, Điện Biên đã khởi sắc. Giai đoạn 2021 - 2025 trở thành mốc đỏ trong công cuộc đổi đời của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Từ quyết sách đến hành động
Khởi đầu bằng Nghị quyết số 17‑NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Điện Biên ban hành ngày 10/12/2021, văn bản định hướng phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, gắn với mục tiêu giảm nghèo bền vững và an sinh xã hội giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030.
    |
 |
| Trung tâm Phục vụ hành chính công xã Mường Nhé thực hiện chuyên đổi số phục vụ người dân. |
Nghị quyết này đánh dấu bước ngoặt: từ những chính sách mang tính hỗ trợ đơn thuần sang các quyết sách mang tính hệ thống, chiều sâu, tác động toàn diện từ sinh kế, hạ tầng, đào tạo nghề đến chuyển đổi số.
Theo báo cáo mới nhất, trong giai đoạn 2021 - 2025 tỉnh được Trung ương phân bổ hơn 2.063 tỉ đồng thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững.
Từ nguồn lực đó, Điện Biên đã triển khai 7 dự án trọng điểm, hơn 200 mô hình sinh kế phù hợp từng vùng, từng nhóm dân tộc.
Chính vì vậy, người dân vùng cao không còn chờ đợi “gạo hỗ trợ” hay “vốn 0 đồng” chỉ một lần mà được trao quyền tự chủ, được đào tạo, được kết nối với thị trường và được chuyển đổi từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa có đầu ra rõ ràng.
Minh chứng sinh động từ bản làng
Câu chuyện của ông Lầu A Dua, bản Mường Nhé 2, xã Mường Nhé là một trong những minh chứng rõ nét. Trước đây, gia đình ông chỉ trồng ngô, lúa trên nương, quanh năm thu nhập bấp bênh. Nhưng nay, khi chuyển sang chuyên canh cây cao su, mỗi tháng thu từ 5 - 6 triệu đồng, cuộc sống gia đình ổn định hơn, con cái được đi học đầy đủ. “Trước đây, làm nương thu nhập bấp bênh, còn giờ có công việc ổn định, đời sống tốt hơn, con cái được học hành đầy đủ,” ông Dua chia sẻ.
    |
 |
| Những mô hình chuyên canh cây công nghiệp góp phần giúp người dân thoát nghèo bền vững. |
Không chỉ riêng ông Dua, nhiều hộ dân tại huyện Mường Nhé, xã Sín Thầu đã mạnh dạn tìm hướng đi mới. Ví dụ như gia đình ông Tráng Seo Thủ, bản Cà Là Pá, xã Sín Thầu, từ hơn 8ha nương kém hiệu quả, gia đình ông đã chuyển sang trồng quế từ năm 2017. Đến nay, vườn quế phát triển xanh tốt, hứa hẹn thu hoạch trong vài năm tới. Ông Thủ nói: “Trước đây trồng ngô, lúa nương không đủ ăn. Giờ có cây quế, tôi tin rằng khi bán được sẽ có vốn làm ăn, cải thiện cuộc sống.”
Sự chuyển đổi ở từng hộ gia đình như vậy không đơn giản là thay cây trồng: đó là thay đổi cách nghĩ, thay đổi tư duy từ “có đất là đủ” sang “làm sao đất sinh lợi”, từ phụ thuộc thiên nhiên sang chủ động trong sinh kế.
Sản xuất hàng hóa, liên kết chuỗi, tạo “đòn bẩy” cho vùng cao
Điện Biên không dừng lại ở việc khuyến khích “chuyển đổi cây trồng” mà từng bước phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, liên kết với doanh nghiệp, hợp tác xã để hình thành sản phẩm có thương hiệu, tạo đầu ra ổn định cho dân.
Nhiều sản phẩm địa phương như mắc ca, cà phê Catimor, dứa Mường Chà, chè Tủa Chùa, thịt trâu sấy Điện Biên, gạo nếp nương… đã đạt chuẩn OCOP, góp phần nâng cao thu nhập, đồng thời bảo tồn bản sắc văn hóa và phát triển du lịch cộng đồng.
Việc đa dạng hóa cây trồng, mở rộng mô hình sinh kế, đẩy mạnh hợp tác xã và tổ chức sản xuất đã tạo ra động lực mới: nhiều hộ không còn làm riêng lẻ, nhỏ lẻ mà liên kết lại, tham gia chuỗi giá trị và thị trường.
Chẳng hạn, ở vùng rẻo cao, cây dứa mật, cây dược liệu dưới tán rừng, cây mắc ca đã được triển khai gắn với kỹ thuật, vốn vay ưu đãi, đào tạo nghề… Trong 6 tháng đầu năm 2025, khoảng 110 dự án sản xuất theo chuỗi giá trị và 338 dự án cộng đồng đã được triển khai.
    |
 |
| Người dân thu hoạch dứa - cây trồng chủ lực giúp nâng cao thu nhập, mở hướng giảm nghèo bền vững. Ảnh: Trần Hương Báo Nông nghiệp môi trường |
Hạ tầng, đào tạo nghề, tiếp cận dịch vụ: “nền móng” cho thoát nghèo bền vững
Giảm nghèo không chỉ đơn thuần là tăng thu nhập; tỉnh xác định phải đảm bảo người dân được tiếp cận đầy đủ dịch vụ xã hội cơ bản: hạ tầng giao thông, điện, nước sinh hoạt, y tế, giáo dục.
Trong giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh triển khai 862 dự án giao thông, y tế, giáo dục, cấp điện, thủy lợi; tín dụng chính sách phân phối rộng khắp; hơn 395.000 lượt hộ nghèo được vay vốn ưu đãi.
Chưa kể, đào tạo nghề và tạo việc làm bền vững được quan tâm. Ví dụ: năm 2024, toàn tỉnh giải quyết việc làm mới cho 11.099 lao động, đạt 120,64% kế hoạch; tuyển sinh đào tạo nghề cho 10.958 học viên, chủ yếu là con em đồng bào dân tộc thiểu số.
Tại bản làng, nhiều người lần đầu tiên được tiếp cận kỹ thuật, vốn vay, thị trường, đây chính là bước nhảy quyết định để “có việc làm - có thu nhập ổn định”.
Kết quả nhìn thấy - nhưng còn thử thách phía trước
Theo báo cáo, đến tháng 9/2025, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm còn khoảng 19,3%, giảm 1,99 điểm % so với năm 2024.
Tỉnh đặt mục tiêu đến cuối năm 2025 giảm còn 18,9 % (hoặc 17,66% theo kịch bản mạnh) và bình quân giảm 4-4,5 % mỗi năm.
Đây là thành tựu không thể xem nhẹ: từ tỷ lệ hộ nghèo lớn ở vùng dân tộc thiểu số, Điện Biên đang đi đúng hướng, từng bước hiện thực hóa mục tiêu giảm nghèo bền vững.
Tuy vậy, bức tranh vẫn còn nhiều mảng tối cần khắc phục. Trong giai đoạn 10 tháng đầu năm 2025, địa phương ghi nhận một số chỉ số kinh tế - xã hội chững lại: tốc độ tăng trưởng GRDP 9 tháng đầu năm ước đạt 6,76%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước.
Vấn đề thu hút vốn ngoài ngân sách, năng lực hành chính công, đầu tư nhỏ lẻ… vẫn được đánh giá còn hạn chế.
Khoảng cách giữa các xã vùng cao với vùng thấp vẫn lớn: nhiều xã đặc biệt khó khăn chưa hoàn thiện tiêu chí nông thôn mới, nguồn lực còn mỏng, thiên tai và biến động thị trường có thể ảnh hưởng đến thu nhập hộ dân.
Tầm nhìn và khát vọng phía trước
Để “thất thoát” khỏi nghèo không chỉ về mặt thu nhập mà còn về tư tưởng và địa vị xã hội, Điện Biên cần tiếp tục: Kiên trì nâng cao chất lượng mô hình sinh kế, tránh “trồng cái gì bán cái đó” mà phải gắn đầu ra, chế biến, bảo quản, thị trường ổn định; Thúc đẩy chuyển đổi số, chính quyền số, kinh tế số, xã hội số - để vùng sâu, vùng xa không bị bỏ lại phía sau. Xem đây là động lực mới; Tăng cường đào tạo nghề, nâng cao kỹ năng cho người dân vùng cao, đặc biệt là thanh niên dân tộc thiểu số; Huy động xã hội hóa, doanh nghiệp và hợp tác xã tham gia vào chuỗi sản xuất-tiêu thụ, nâng cao vai trò người dân là chủ thể vươn lên; Giải quyết đồng bộ hạ tầng, giao thông, thông tin, thủy lợi, điện, nước để “cơ sở vật chất” không còn là rào cản lớn; Giữ gìn, phát huy văn hóa truyền thống kết hợp du lịch cộng đồng; khi đồng bào hiểu rằng bản sắc là tài sản, họ sẽ gắn bó và phát triển bền vững hơn.
    |
|
| Khi cơ sở vật chất” không còn là rào cản lớn, giữ gìn, phát huy văn hóa truyền thống kết hợp du lịch cộng đồng, khi đồng bào hiểu rằng bản sắc là tài sản, họ sẽ gắn bó và phát triển bền vững hơn. Video Du lịch Điện Biên |
Khi nhìn về năm 2030, nếu mỗi xã, mỗi bản đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Điện Biên đều tự chủ thu nhập, con em được học hành, hạ tầng được kết nối, thì mục tiêu đưa vùng đất anh hùng này trở thành “vùng phát triển nhanh, bền vững” sẽ không chỉ là khát vọng mà là hiện thực.
Trong câu chuyện lớn của vùng biên Mường Nhé, của xã Sín Thầu, của bản Mường Nhé 2 và Cà Là Pá… không chỉ có cây cao su, cây quế, cây mắc ca, mà còn là khát vọng, là niềm tin được hồi sinh. Hệ thống chính trị, chính sách đúng hướng, người dân chủ động đổi mới, tất cả tạo nên động lực để Điện Biên bật lên, trở thành điểm sáng giảm nghèo bền vững của vùng Tây Bắc.
Tuy hành trình còn dài, nhưng từng bước thay đổi ấy đang vang lên mạnh mẽ. Khi nền tảng sinh kế vững chắc, khi mỗi người dân không chỉ “thoát nghèo” mà “vươn lên”, thì Điện Biên sẽ không chỉ là địa phương gắn với quá khứ khó khăn, mà sẽ trở thành biểu tượng của khát vọng và đổi thay.