(BVPL) - Nguyễn Lan Phương (Nam Đàn, Nghệ An) hỏi: Con tôi phạm tội Cố ý gây thương tích. Gia đình tôi đã đền bù thiệt hại và người bị hại đã có đơn bãi nại nhưng không hiểu vì sao con tôi vẫn bị Tòa án xử phạt 36 tháng tù. Tôi xin hỏi, vì sao thực tế cũng có trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích như con tôi nhưng khi người bị hại có đơn xin bãi nại thì người đó lại không bị xử phạt tù?

 

 

Bà Phương thân mến!

Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự, những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật Hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.

Tội Cố ý gây thương tích được quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự như sau:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, hoặc từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân”.

Như vậy, chắc bà đã hiểu, vì sao cũng có trường hợp phạm tội Cố ý gây thương tích nhưng khi người bị hại có đơn xin bãi nại thì vụ án được đình chỉ và người phạm tội sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Con bà phạm tội Cố ý gây thương tích không thuộc khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự nên việc bãi nại của người bị hại chỉ được xem xét là tình tiết giảm nhẹ. Do đó, trong trường hợp đó, con bà vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
 

N.C.B.Đ

.