Huỷ hoại rừng là hành vi đốt, phá rừng trái phép rừng hoặc có hành vi khác làm cho rừng mất hoàn toàn giá trị hoặc làm cho rừng giảm giá trị đáng kể.
Tội huỷ hoại rừng được quy định tại Điều 243 Bộ luật hình sự. Một người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hủy hoại rừng nếu có đủ căn cứ của các yếu tố cấu thành tội phạm như sau:
Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đến một độ tuổi theo quy định của Bộ luật hình sự thì đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.
Người có hành vi huỷ hoại rừng nếu chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu trước đó họ đã bị xử phạt hành chính về hành vi huỷ hoại rừng mà còn vi phạm.
Khi xác định chủ thể của tội phạm này cần chú ý: Người được giao trồng rừng, quan lý và chăm sóc rừng mà có hành vi huỷ hoại rừng do chính mình trồng, được giao quản lý, chăm sóc thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với người đã bị kết án về tội huỷ hoại rừng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm và chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì điều luật không quy định trường hợp “đã bị kết án về tội huỷ hoại rừng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”. Có lẽ đây cũng là vấn đề cần xem xét khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, vì không có lý do gì mà một người chỉ bị xâm phạm hành chính về hành vi huỷ hoại rừng mà còn vi phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn người đã bị kết án về tội huỷ hoại rừng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm lại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Khách thể của tội phạm: Tội huỷ hoại rừng là tội xâm phạm đến chế độ quản lý rừng của Nhà nước, xâm phạm nghiêm trọng đến môi trường sinh thái, gây ra những hậu quả nghiêm trọng khác cho đời sống xã hội.
Đối tượng tác động của tội phạm này chính là rừng bao gồm: rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất.
– Rừng phòng hộ được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, chống sa mạc hóa, hạn chế thiên tai, điều hoà khí hậu, góp phần bảo vệ môi trường, bao gồm: Rừng phòng hộ đầu nguồn; Rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay; Rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển; Rừng phòng hộ bảo vệ môi trường.
– Rừng đặc dụng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa học; bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường, bao gồm: Vườn quốc gia; Khu bảo tồn thiên nhiên gồm khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài – sinh cảnh; Khu bảo vệ cảnh quan gồm khu rừng di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh; Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học
– Rừng sản xuất được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, lâm sản ngoài gỗ và kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường, bao gồm: Rừng sản xuất là rừng tự nhiên; Rừng sản xuất là rừng trồng; Rừng giống gồm rừng trồng và rừng tự nhiên qua bình tuyển, công nhận.
Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
Người phạm tội huỷ hoại rừng có thể thực hiện một hoặc một số hành vi sau:
Đốt rừng là dùng lửa hoặc các hoá chất phát lửa làm cho rừng bị cháy, có thể cháy toàn bộ hoặc chỉ cháy một phần; Hành vi đốt rừng làm rẫy của đồng bào ở vùng cao nếu được chính quyền cho phép thì không coi là huỷ hoại rừng. Tuy nhiên, việc đốt rừng làm rẫy cho đến nay hầu như không được phép.
Phá rừng là chặt phá cây trong rừng hoặc khai thác tài nguyên của rừng không được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép như: khai thác gỗ, khai thác các lâm sản trái phép.v.v…
Hành vi khác hủy hoại rừng là ngoài hai hành vi đốt rừng và phá rừng trái phép thì bất cứ hành vi nào làm cho rừng bị tàn phá đều là hủy hoại rừng như: dùng hoá chất độc phun hoặc rải xuống đất làm cho cây rừng bị chết khô, thả gia súc vào rừng mới trồng để gia súc phá hoại cây rừng v.v…
Hậu quả: Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này; nếu người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính về hành vi huỷ hoại rừng thì phải gây hậu quả nghiêm trọng thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người thực hiện hành vi phạm tội này là do cố ý, điều này thể hiện ngay ở tên tội danh “huỷ hoại” và trong điều văn của điều luật. Khái niệm “huỷ hoại” đã chứa đựng ý thức chủ quan của người có hành vi đốt, phá rừng rồi. Cũng tương tự như đối với tội “huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” nhà làm luật chỉ quy định cố ý làm hư hỏng chứ không quy định cố ý huỷ hoại.
Do đó đối với các trường hợp vi phạm vè phòng cháy, chữa cháy hoặc vô ý gây cháy rừng chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng” quy định trong Bộ luật hình sự.