Từ việc ly hôn 20 năm trước
 

Theo trình bày của bà ĐTH: Năm 1987, bà và ông X (khi đó là vợ chồng) mua một ngôi nhà ở thôn Phú Lương, xã Hòa Tân Đông, huyện Đông Hòa theo diện nhà hóa giá của Nhà nước. Khi đó, trên đất có nhiều cây ăn quả, gồm 27 cây dừa, 03 cây Sapoche, 01 cây mãng cầu, 08 cây xoài, 03 cây vú sữa, 04 cây ô mai, 01 cây bơ. Trong quá trình chung sống, bà có trồng thêm 01 cây khế. Năm 1996, do có nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống, bà và ông X đã dẫn nhau ra Tòa xin ly hôn. Tại bản án sơ thẩm ngày 25/10/1996 của TAND huyện Tuy Hòa (cũ) đã tuyên ông bà được ly hôn; về tài sản, giao ông V sở hữu nhà, không giao đất và cây trái trên đất. Năm 2001, ông V bán nhà cho ông ĐVM và tự ý bán luôn cả số cây ăn trái. Sau đó, ông M tiến hành chặt phá toàn bộ số cây cối nói trên. Bà có khiếu nại đến UBND xã  nhưng không được giải quyết. Nay bà đề nghị Tòa xem xét, giải quyết, cụ thể: Yêu cầu các ông V, M phải trả toàn bộ số cây ăn quả nói trên theo giá Nhà nước quy định hiện nay là  41.500.000 đồng; ông M trả giá trị hoa lợi của số cây đó tính từ năm 2001 (năm ông M chặt phá cây) đến nay, có tính trừ 05 năm thiên tai, còn lại 11 năm với tổng giá trị 70.004.000 đồng (tổng giá trị cây và hoa lợi là 111.504.000 đồng).
 
Tại phiên tòa, bà H khai số cây ăn quả là tài sản chung của bà và ông V nên yêu cầu chia theo quy định, nhưng phải xem xét đến công sức chăm sóc cây của bà để chia cho công bằng. 

 

leftcenterrightdel
 Ảnh minh họa. Nguồn: Pháp luật TP. HCM


Ông ĐVM trình bày, ông V được Tòa án giao sở hữu nhà đất ở thôn Phú Lương, xã Hòa Tân Đông. Năm 2001, ông V bán nhà nói trên cho ông. Khi mua nhà, trên đất có một số cây ăn trái như xoài, dừa, khế..., không nhớ rõ số lượng, loại cây cụ thể. Từ đó đến nay ông sử dụng diện tích đất này, ông không chặt cây như bà H khai mà là do cây trồng đã lâu, già cỗi bị chết bớt một số, không rõ chết bao nhiêu, loại cây gì. Nay ông xác nhận số lượng cây ăn trái mà ông V bán cho ông hiện nay còn 02 cây dừa, 02 cây xoài, 01 cây khế. Ông V bán nhà đất kèm cây ăn trái trên đất cho ông, ông V đã nhận đủ giá trị nhà đất và cây ăn trái, nên ông không chấp nhận yêu cầu của bà H. 
 
 Ông NXV cho rằng: Năm 1996, ông và bà H ly hôn. Hai bên thống nhất giao nhà đất, cùng toàn bộ cây ăn trái cho ông sở hữu, sử dụng. Khi đó, trên đất có một số cây dừa (không nhớ rõ số lượng), 01 cây khế, 01 cây bơ, 02 cây xoài, 01 cây sapoche. Năm 2001, ông chuyển nhượng nhà đất và cây ăn trái cho ông M. Nay bà H yêu cầu ông và ông M trả lại giá trị cây ăn trái và hoa lợi thu được từ cây, ông không đồng ý vì số cây đó đã thuộc quyền  sở hữu của ông theo quyết định của Tòa án.
 
Tòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện
 
TAND huyện Đông Hòa nhận định: Năm 1987, bà H và ông V hợp đồng mua nhà hóa giá của Nhà nước. Tại hợp đồng mua nhà thể hiện rõ số cây ăn quả gồm 27 cây dừa, 03 cây  sapoche, 02 cây mãng cầu, 08 cây xoài, 03 cây vú sữa, 04 cây ô mai, 01 cây bơ. Sau đó, bà H và ông V trồng thêm 01 cây khế  nên xác định toàn bộ số cây này là tài sản chung của bà H và ông V. Năm 1996, bà H và ông V ly hôn, theo bản án sơ thẩm hôn nhân và gia đình số 20 ngày 25/10/1996 của TAND huyện Tuy Hòa đã giao cho ông V sở hữu nhà đất tại thôn Phú Lương, xã Hòa Tân Đông nêu trên, nhưng không đề cập đến phần cây ăn quả có trên đất. Như vậy, xác định số cây ăn quả nói trên là tài sản chung chưa chia của ông V và bà H.
 
Năm 2001, ông V bán nhà cho ông ĐVM, đã bán luôn cả số cây ăn trái là tài sản chung của ông V và bà H nêu trên mà không có sự đồng ý của bà H. Ông V có lời khai thừa nhận khi bán nhà cho ông M, trên đất có dừa (không xác định số cây), 02 cây xoài, 01 cây khế, 01 cây bơ, 01 cây sapoche. Ông M cũng thừa nhận khi ông V bán nhà có bán luôn cả phần cây ăn trái như ông V nêu nhưng ông không nhớ rõ số lượng cây. 
 
Như vậy, đủ cơ sở xác định số cây ăn quả là tài sản chung chưa chia của bà H, ông V. Ông V đã nhận đủ tiền mua cây trái của ông M, trong đó có ½ giá trị là của bà H, nên ông V phải trả lại cho bà H theo ½ giá thị trường tại thời điểm xét xử. Căn cứ kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá thì tổng giá trị số cây ăn quả nói trên là 23.190.000 đồng. 
 
Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của  bà H, buộc ông ông V trả lại cho bà H ½ giá trị của số cây nói trên là 11.595.000 đồng. 
 
Đối với yêu cầu của bà H đề nghị xem xét công sức chăm sóc cây của bà để phân chia cho phù hợp; xét thấy bà và ông V trước đây là vợ chồng, việc ai là người trực tiếp chăm sóc cây ăn trái là do sự phân công công việc trong gia đình nên không chấp nhận yêu cầu tính công sức chăm sóc cây của bà H. 
 
Đối với yêu cầu của bà H về yêu cầu ông M trả giá trị hoa lợi thu được từ cây ăn trái tính từ năm  2001 đến nay. Xét thấy, sau khi ly hôn (năm 1996), bà H không chăm sóc cây, bỏ mặc ông V chăm sóc. Năm 2001, ông V bán toàn bộ cây cho ông M và ông M đã trả đủ tiền cho ông V. Từ đó, số cây là do ông M chăm sóc nên không chấp nhận yêu cầu này của bà H. 
 
Từ đó, TAND huyện Đông Hòa đã tuyên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà H, buộc ông V trả lại cho bà H số tiền 11.595.000 đồng. 

Hồ Lưu