leftcenterrightdel
 Cán bộ Hải quan cảng Đà Nẵng hỗ trợ DN hoàn thiện tờ khai nhập khẩu. Ảnh: Hải Anh

Ngày 18/11/2016, Công ty TNHH thương mại xuất nhập khẩu quốc tế Minh Giang (viết tắt là Cty Minh Giang), có trụ sở tại TP Hải Phòng có ký hợp đồng mua của hãng Thiele (Đức) các mặt hàng xích nâng tải và các bộ phận rời của xích.

Các mặt hàng này được hãng Thiele, Phòng Công nghiệp và Thương mại, Hải quan Cộng hòa Liên bang Đức phân loại vào nhóm: 7315 (mã hàng hóa quốc tế - HS).

Ngày 8/5/2017, Cty Minh Giang đã làm thủ tục mở tờ khai nhập khẩu hàng hóa số 101393466900-NKD, tại Chi cục Hải quan cửa khẩu Cảng Đà Nẵng, TP.Đà Nẵng (sau đây viết tắt là Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng).

Theo đó, xích các loại từ số thứ tự 1 đến 7 của tờ khai được phân vào nhóm 7315 với mã hàng số 7315.82.00, mức thuế nhập khẩu là 3%. Còn các bộ phận rời của xích (gồm móc xích, mắt nối xích, vòng xích chủ, vòng xích 2 chân, móc thu ngắn xích các loại) từ số thứ tự 08 đến 42 của tờ khai được phân vào nhóm 7315 với mã hàng số 7315.90.99, mức thuế nhập khẩu là 3%.

Sau đó, Cty Minh Giang đã nhận được thông báo thuế của Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng với số tiền phải nộp là 107.305.394 đồng. Số tiền này, Cty đã nộp vào tài khoản ngân sách của Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng tại Kho bạc Nhà nước quận Sơn Trà, TP.Đà Nẵng.

Tuy nhiên, ngày 10/5/2017, Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng yêu cầu kiểm hóa 100% lô hàng, sau đó lấy mẫu gửi đi phân tích, phân loại. Đến ngày 28/7/2017, Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng có công văn số 1096/HQCĐN, gửi cho Cty Minh Giang, thừa nhận xích các loại (từ số thứ tự 01 đến 07 trong tờ khai) thuộc mã hàng 7315.82.00.  Còn các bộ phận rời của xích (từ thứ tự số 08 đến 42 trong tờ khai) thì Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng lại đưa sang mã hàng số 7326.90.99.         

Ngày 9/8/2017, Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng có quyết định số 59677/QĐ-HQCĐN ấn định thuế đối với các mặt hàng nhập khẩu (từ số thứ tự 08 đến số 42) thuộc tờ khai hải quan của Cty Minh Giang. Theo quyết định ấn định thuế của Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng thì số tiền thuế mà Cty Minh Giang phải nộp thêm là: 35.733.888 đồng.

Không đồng ý, Cty Minh Giang đã khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy Quyết định ấn định thuế của Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng để yêu cầu tính lại thuế.

Tại bản án sơ thẩm số 01/2018/HC-ST ngày 14/9/2018, TAND quận Sơn Trà đã xử: Bác yêu cầu khởi kiện của Cty Minh Giang. Không đồng ý, Cty Minh Giang có đơn kháng cáo lên cấp phúc thẩm để tiếp tục đòi quyền lợi.

Theo Luật sư Trần Hồng Lĩnh – Đoàn Luật sư TP.Hải Phòng cho rằng kháng cáo của Cty Minh Giang yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy án sơ thẩm, hủy Quyết định số 59677/QĐ-HQCĐN của Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng và yêu cầu Chi cục xác định lại mức thuế suất đối với hàng hóa nhập khẩu của Cty Minh Giang là có căn cứ. 

Thứ nhất, về thể thức và thẩm quyền ban hành quyết định: Căn cứ điểm a khoản 7 điều 48 Thông tư 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015, của Bộ Tài chính quy định: “Khi ấn định thuế cơ quan hải quan phải ban hành quyết định ấn định thuế theo mẫu số 09/QĐAĐT/TXNK phụ lục VI ban hành kèm Thông tư này”. Tuy nhiên, Quyết định 59677, của Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng lại lẫn lộn về thẩm quyền và không đúng quy định của Bộ Tài chính. 

Tại Bản án sơ thẩm đã xử: “Kiến nghị Chi cục trưởng Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng sửa chữa quyết định số 59677 theo đúng biểu mẫu số 09 ban hành kèm Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính …”.

Thứ hai, về căn cứ phân loại hàng hóa và quyết định ấn định thuế: Nội dung Quyết định số 59677, không hề đưa ra căn cứ, lý do cụ thể để phân loại hàng (từ thứ tự số 08 đến 42 trong tờ khai) của Cty Minh Giang vào nhóm 7326 với mã hàng số 7326.90.99.

Trong Công văn số 261/KĐ-NV ngày 15/6/2017, của Chi cục Kiểm định Hải quan 4 gửi Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng nói là “hỗ trợ phân tích, phân loại hàng hóa” nhưng không hề phân tích về thành phần, tính chất lý, hóa, tính năng, công dụng của hàng hóa, cũng không căn cứ vào hồ sơ hải quan, tài liệu kỹ thuật mà áp đặt luôn các mặt hàng từ số 08 đến số 42 trong tờ khai của doanh nghiệp thuộc nhóm mã hàng 7326 là vi phạm khoản 1 Điều 26 Luật HQ số 54/2014/QH13 và khoản 2 Điều 16 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP quy định: “Khi phân loại hàng hóa phải căn cứ vào hồ sơ hải quan, tài liệu kỹ thuật và các thông tin về thành phần, tính chất lý, hóa, tính năng, công dụng của hàng hóa”.

Bản thân Công văn số 261/KĐ-NV cũng tự nhận chỉ là “hỗ trợ phân tích, phân loại hàng hóa” chứ không phải là kết luận giám định. Người ký công văn 261 cũng không phải là giám định viên nên công văn này không có giá trị.

Do dó, Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng không thể dựa vào Công văn số 261 của Chi cục Kiểm định Hải quan 4 để làm căn cứ đưa hàng hóa của Cty Minh Giang từ số thứ tự 08 đến 42 vào nhóm mã hàng 7326 và ra quyết định ấn định thuế.

Căn cứ vào hồ sơ hàng hóa xuất, nhập khẩu của Cty Minh Giang đã được Hải quan Cộng hòa Liên bang Đức phân loại vào nhóm mã hàng 7315 trong Danh mục HS. Trong chú giải chi tiết Danh mục HS đã chỉ ra rất rõ hàng hóa thuộc nhóm 7315 bao gồm: “Xích và các bộ phận rời của xích bằng sắt hoặc thép; tất cả những loại xích này có thể được gắn với các bộ phận hoặc các phụ tùng cuối cùng (ví dụ các móc, móc lò xo, khớp mắt xích, vòng kẹp, ống nối và các chi tiết chữ T), các bộ phận rời bằng sắt hoặc thép của các loại xích chuyên dụng ví dụ như mắt nối lề, con trượt, vít ép, … đối với xích được nối bản lề, mắt nối và vòng kẹp đối với xích không được nối bản lề cũng thuộc vào nhóm này.

Thư giải thích của hãng Thiele – Cộng hòa Liên bang Đức (ngày 10/10/2017) cũng chỉ rõ các bộ phận rời của xích có số thứ tự từ 08 đến 42 trong tờ khai của Cty Minh Giang “không chỉ là sản phẩm rèn, dập mà chúng đã được gia công hoàn thiện, đã được tinh luyện, xử lý nhiệt đặc biệt và phủ bề mặt, là một phần của xích để kết nối với xích tạo thành chuỗi nâng hoàn chỉnh”. Còn mã 7326 trong chú giải chi tiết danh mục HS chỉ là: “Các sản phẩm khác bằng sắt hoặc thép đã được rèn hoặc dập nhưng chưa được gia công tiếp”.

Với các cơ sở trên, lẽ ra Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng  phải phân loại hàng hóa của Cty Minh Giang từ thứ tự 08 đến 42 trong tờ khai hải quan vào cùng nhóm mã hàng 7315 mới đúng. Hơn nữa, khi mà Việt Nam đã tham gia “Công ước quốc tế về Hệ thống hài hòa mô tả và mã hàng hóa” thì không thể có việc cùng một loại hàng, Hải quan cảng xuất phân vào nhóm mã hàng này, Hải quan cảng nhập lại phân vào nhóm mã hàng khác.

Cũng theo  Luật sư Trần Hồng Lĩnh – Đoàn Luật sư TP.Hải Phòng, từ các lý lẽ ở trên có thể nhận thấy: Việc phân loại hàng hóa, quyết định ấn định thuế của Chi cục Hải quan CK Cảng Đà Nẵng đối với các bộ phận rời của xích từ số thứ tự 08 đến số 42 của Cty Minh Giang vào nhóm mã hàng 7326 là không có căn cứ pháp luật, vi phạm điểm (a), điểm (c) khoản 7 điều 48 Thông tư 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính; Vi phạm khoản 1 Điều 26 Luật HQ số 54/2014/QH13 và khoản 2 Điều 16 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP của Chính phủ; Vi phạm khoản 1 và khoản 2 Điều 6 Thông tư số 14/2015/TT-BTC ngày 30/01/2015 của Bộ Tài chính.

Khánh An