Theo Bộ Tư pháp, trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 73-KL/TW xác định những nhiệm vụ trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực này. 

Đồng thời, qua hơn 8 năm thi hành Nghị định số 113/2014/NĐ-CP đã đạt được những kết quả nhất định như quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật được tăng cường, đi vào nền nếp; hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật của các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương bám sát, phù hợp với định hướng, nguyên tắc của Đảng và Nhà nước, qua đó đã hỗ trợ tích cực cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật và tư pháp, trình độ hiểu biết cũng như kỹ năng của các chuyên gia pháp luật Việt Nam đã được nâng lên đáng kể, tiếp cận được với những kiến thức, kinh nghiệm quốc tế phục vụ công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật.

Bên cạnh những kết quả đạt được, một số quy định của Nghị định số 113/2014/NĐ-CP còn chưa phù hợp và việc triển khai thi hành Nghị định số 113/2014/NĐ-CP còn một số khó khăn, vướng mắc như: Phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 113/2014/NĐ-CP chưa rõ ràng, còn có sự trùng lặp về quy trình, thủ tục thực hiện một số hoạt động hợp tác quốc tế đã được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật khác như việc lập, phê duyệt chương trình, dự án, phi dự án về pháp luật có sử dụng nguồn vốn ODA nên khi pháp luật chuyên ngành về ODA có sự thay đổi đã khiến cho quy định của Nghị định 113/2014/NĐ-CP không đồng bộ, thống nhất với các quy định pháp luật có liên quan.

leftcenterrightdel
 Quang cảnh buổi làm việc giữa VKSND cấp cao tại Hà Nội và Đoàn đại biểu VKSND tối cao Lào. (Ảnh minh hoạ)

Quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong quản lý, thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật chưa được rõ ràng, cụ thể, chủ yếu gắn với trách nhiệm về quản lý, sử dụng vốn ODA mà chưa gắn với những đặc thù, tác động của hợp tác quốc tế về pháp luật.

Việc thực hiện Nghị định số 113/2014/NĐ-CP có nơi, có lúc còn lúng túng, sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương ở một số nơi còn thiếu chặt chẽ, ảnh hưởng đến hiệu quả hợp tác cũng như công tác đảm bảo an ninh, trật tự trong  hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật. 

Nhận thức và việc tuân thủ các quy định của Nghị định số 113/2014/NĐ-CP chưa có sự đồng bộ giữa các cơ quan, tổ chức, địa phương. Các điều kiện bảo đảm để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật (bao gồm cả nguồn nhân lực và ngân sách) còn hạn chế. 

Với cơ sở chính trị, pháp lý và thực tế nêu trên, việc xây dựng Nghị định mới thay thế Nghị định số 113/2014/NĐ-CP là cần thiết để đảm bảo cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, định hướng của Đảng trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật trong đó chú trọng thực hiện các nhiệm vụ về bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền trong hoạt động xây dựng pháp luật, thực hiện tốt công tác đảm bảo an ninh, trật tự và phòng ngừa những nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn có thể có trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật.

Mục đích xây dựng dự thảo Nghị định, theo cơ quan chủ trì soạn thảo là nhằm cụ thể hóa các chủ trương, định hướng của Đảng về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan trong việc đề xuất, triển khai thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp cũng như tăng cường các biện pháp để đảm bảo các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật được đúng định hướng, chủ trương của Đảng và Nhà nước; làm rõ trách nhiệm quản lý nhà nước của các cơ quan có liên quan và thực hiện phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương trong quyết định, thực hiện và quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật phù hợp với thực tiễn.

Về bố cục, dự thảo Nghị định gồm 4 chương, 16 điều. Trong đó quy định cụ thể về nội dung và hình thức hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp.

Cụ thể, hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp bao gồm các hoạt động trong các lĩnh vực sau: Xây dựng pháp luật; Thi hành pháp luật; Chia sẻ, nâng cao kiến thức, năng lực trong lĩnh vực pháp luật; Cải cách tư pháp, bao gồm hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, cơ quan thi hành án, bổ trợ tư pháp, đào tạo các chức danh tư pháp và nghề tư pháp.

Hình thức hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp gồm: Ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế; Xây dựng và thực hiện các dự án, phi dự án; Tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm, tập huấn hoặc các khóa bồi dưỡng theo hình thức gặp gỡ trực tiếp trên lãnh thổ Việt Nam hoặc theo hình thức trực tuyến với ít nhất một điểm cầu thuộc lãnh thổ Việt Nam; Cung cấp chuyên gia pháp luật, văn bản, tài liệu pháp luật.

P.V