Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã có quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động này nhưng thiếu cụ thể, rõ ràng, chưa đầy đủ, gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng.
Khắc phục hạn chế của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung quan trọng về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động này. Tuy vậy, các quy định của BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn về vấn đề này sau một thời gian áp dụng đã bộc lộ những vướng mắc, khó khăn cần được nghiên cứu để hoàn thiện trong thời gian tới.
Thứ nhất, tại khoản 2 Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-NN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, VKSND tối cao quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (Thông tư liên tịch số 01/2017) đã quy định: “Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định tại Điều 9 Thông tư liên tịch này, Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, phân công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên hoặc ra Quyết định phân công Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và gửi ngay một bản cho Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố”.
Trong khi đó, khoản 1 Điều 7 Quy chế Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ban hành kèm theo Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao (Quy chế số 111) lại quy định: “Trong thời hạn 3 ngày, kể từ khi nhận được thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố hoặc quyết định khởi tố vụ án của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải ra quyết định phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án, vụ việc. Tùy theo tính chất của vụ án, vụ việc, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện có thể phân công một hoặc nhiều Kiểm sát viên, Kiểm tra viên cùng giải quyết vụ án, vụ việc”.
Nghiên cứu các quy định trên thấy rằng: Trong khi Điều 7 Quy chế 111 quy định thời hạn ra quyết định phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là 3 ngày (không phân biệt ngày làm việc hay ngày nghỉ), kể từ ngày nhận được văn bản thông báo về việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan có thẩm quyền điều tra; thì tại Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2017 lại quy định thời hạn Viện kiểm sát phải ra quyết định phân công là 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Như vậy, quy định về việc ra quyết định phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có sự khác nhau giữa Quy chế 111 và Thông tư liên tịch số 01/2017, dẫn đến thực hiện thiếu thống nhất, dù Viện kiểm sát nhận được văn bản thông báo về việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cùng hay khác thời điểm nhận được quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra.
Ví dụ: Ngày 8/4/2020, Cơ quan điều tra huyện A nhận được tố giác tội phạm của công dân về hành vi Cố ý gây thương tích. Ngày 9/4/2020, Cơ quan điều tra ban hành văn bản thông báo về việc tiếp nhận tố giác, cùng ngày Cơ quan điều tra cũng đã ra quyết định phân công Điều tra viên thụ lý, giải quyết tố giác trên.
Viện kiểm sát nhận được văn bản thông báo về việc tiếp nhận tố giác của Cơ quan điều tra vào ngày 9/4/2020, còn quyết định phân công Điều tra viên thì đến ngày 10/4/2020, Viện kiểm sát mới nhận được. Trong trường hợp này, theo Điều 7 Quy chế 111 thì thời hạn ra quyết định phân công Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác bắt đầu từ ngày 9/4/2020 (ngày Viện kiểm sát nhận được văn bản thông báo) và kết thúc vào ngày 11/4/2020; trong khi theo Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2017 thì thời hạn Viện kiểm sát phải ra quyết định phân công Kiểm sát viên lại bắt đầu từ ngày 10/4/2020 (ngày Viện kiểm sát nhận được quyết định phân công Điều tra viên) và kết thúc vào ngày 12/4/2020.
Để khắc phục quy định thiếu thống nhất giữa Điều 7 Quy chế 111 và Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2017, theo chúng tôi, VKSND tối cao cần sửa đổi quy định tại Điều 7 Quy chế 111 cho phù hợp với Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2017 của liên ngành Trung ương.
Thứ hai, tại khoản 1 Điều 148 BLTTHS năm 2015 có quy định:
“1. Hết thời hạn quy định tại Điều 147 của Bộ luật này, cơ quan có thẩm quyền giải quyết quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả;
b) Đã yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả.
2…”
Quy định này cùng với quy định tại điểm c khoản 3 Điều 145 của Bộ luật này cho thấy rằng khi hết thời hạn quy định tại Điều 147 của Bộ luật này, Viện kiểm sát cũng có quyền quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi thuộc một trong các trường hợp: Đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả; Đã yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả.
Thế nhưng, khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, Viện kiểm sát lại không có quyền ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Chỉ có Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mới có quyền này (Điều 149 BLTTHS năm 2015).
Như vậy, vấn đề đặt ra là Viện kiểm sát phải xử lý như thế nào khi đã tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhưng sau đó lý do tạm đình chỉ không còn.
Ví dụ: Khi phát hiện Cơ quan điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, Viện kiểm sát huyện H đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không khắc phục nên đã rút hồ sơ để trực tiếp giải quyết tố giác về hành vi cố ý gây thương tích. Vì đã ra quyết định trưng cầu giám định nhưng hết thời hạn quy định tại Điều 147 của BLTTHS năm 2015 vẫn chưa có kết quả nên Viện kiểm sát ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết đối với tố giác này. Sau đó, Viện kiểm sát nhận được kết luận giám định của cơ quan giám định. Trường hợp này, mặc dù lý do tạm đình chỉ không còn nhưng Viện kiểm sát vẫn không thể phục hồi giải quyết tố giác được vì luật không quy định thẩm quyền này cho Viện kiểm sát.
Để khắc phục hạn chế trên, chúng tôi cho rằng BLTTHS năm 2015 cần bổ sung thẩm quyền quyết định việc phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cho Viện kiểm sát bằng việc sửa đổi quy định tại Điều 149 của Bộ luật này như sau:
“Điều 149. Phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Khi lý do tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không còn, Cơ quan có thẩm quyền quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi.
2. Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định phục hồi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Viện kiểm sát phải gửi quyết định phục hồi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.”
Thứ ba, khoản 2 Điều 145 BLTTHS năm 2015 quy định: “2. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gồm: a) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; b) Cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm”. Các cơ quan, tổ chức quy định tại điểm b khoản 2 Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 gồm: Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an; Tòa án các cấp; Cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác (điểm d khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2017).
Như vậy, với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 145 BLTTHS năm 2015 và điểm d khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2017 thì cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Điều này mâu thuẩn với các quy định khác của BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Mặc dù Thông tư liên tịch số 01/2017 đã quy định trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tại điểm b khoản 1 Điều 5 nhưng quy định này là không phù hợp với khoản 2 Điều 145 BLTTHS năm 2015 (tại điểm a khoản 2 Điều này chỉ quy định Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát; điểm b khoản 2 Điều này được hướng dẫn bởi điểm d khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2017 cũng không quy định trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra).
Để khắc phục hạn chế trên, theo chúng tôi cần phải sửa đổi theo một trong hai hướng sau:
(i) Sửa đổi, bổ sung vào khoản 2 Điều 145 BLTTHS năm 2015 quy định trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra:
“Điều 145. Trách nhiệm tiếp nhận và thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận không được từ chối tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
2. Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gồm:
a) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
b) Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm;
c) Cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm.”
(ii) Sửa đổi khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2017 theo hướng bổ sung trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra vào điểm d, thay vì quy định tại một điểm riêng (điểm b) nhằm bảo đảm phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 145 BLTTHS năm 2015, như sau:
“Điều 5. Trách nhiệm tiếp nhận, thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
1. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm:
a) Cơ quan điều tra;
b) Viện kiểm sát các cấp;
d) Các cơ quan, tổ chức quy định tại điểm b khoản 2 Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 gồm: Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an; Tòa án các cấp; Cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác.”.
Thứ tư, theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2017 thì sau khi nhận được Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, phân công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên hoặc ra Quyết định phân công Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên, trong hệ thống Mẫu văn bản tố tụng, văn bản nghiệp vụ thực hiện trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố của Viện kiểm sát (ban hành kèm theo Quyết định số 15/2018/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao) lại không có mẫu Quyết định phân công Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, làm cho quá trình thực hiện không được thống nhất. Vì vậy, chúng tôi đề xuất Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ sung mẫu này vào hệ thống mẫu văn bản tố tụng để bảo đảm sự thống nhất khi thực hiện.
Thứ năm, trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là nhiệm vụ, quyền hạn mới được BLTTHS năm 2015 quy định cho Viện kiểm sát, Kiểm sát viên. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn này, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên có quyền tiến hành các hoạt động: Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin; Khám nghiệm hiện trường; Khám nghiệm tử thi; Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản. Vậy nhưng, ngoài quy định tại Điều 42 Quy chế 111, đến nay chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể, đầy đủ về trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Kiểm sát viên. Kỹ năng trực tiếp tiến hành các hoạt động nêu trên của Kiểm sát viên cũng còn nhiều hạn chế. Vậy nên, theo chúng tôi, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần xây dựng nội dung, lên kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cho đội ngũ Kiểm sát viên. Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng Quy chế riêng hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm, quy trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong ngành Kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm cho Viện kiểm sát các cấp, các Kiểm sát viên thực hiện có chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ mới, cơ bản và quan trọng này.