Kiểm sát viên trực tiếp lấy lời khai bị hại

Trong quá trình điều tra, để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xem xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, Kiểm sát viên (KSV) có quyền triệu tập và lấy lời khai bị hại theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 42, khoản 7 Điều 165, Điều 188 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2021 (BLTTHS), Điều 12 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của liên ngành Trung ương và Điều 51 Quy chế Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành kèm theo Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao. Kiểm tra viên là người tiến hành tố tụng nhưng họ không có quyền hạn triệu tập, lấy lời khai bị hại mà chỉ có nhiệm vụ giao, chuyển, gửi giấy triệu tập, ghi biên bản lấy lời khai theo sự phân công của lãnh đạo Viện và KSV.

KSV cần xác định rõ mục đích lấy lời khai bị hại, để kiểm tra, bổ sung chứng cứ hay để giải quyết những mâu thuẫn trong lời khai bị hại với các tài liệu, chứng cứ khác, từ đó có phương pháp nghiên cứu hồ sơ phù hợp, làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch lấy lời khai, ví dụ như trường hợp lời khai của bị hại mâu thuẫn với những chứng cứ khác đã thu thập được, KSV đọc kỹ, so sánh, đối chiếu các biên bản ghi lời khai bị hại với nhau và với các tài liệu, chứng cứ khác như kết luận giám định, biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai người làm chứng nhằm phát hiện, trích cứu lại những điểm mâu thuẫn, rồi đưa vào kế hoạch lấy lời khai.

leftcenterrightdel
 Kiểm sát viên lấy lời khai. Ảnh Trần Hữu Dũng

Trước khi tiến hành lấy lời khai, KSV xây dựng kế hoạch lấy lời khai, trong đó lưu ý một số nội dung sau:

- Các vấn đề cần làm rõ: Các mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án (lời khai của bị hại mâu thuẫn với lời khai người làm chứng, biên bản tạm giữ đồ vật, kết luận giám định về tài sản bị chiếm đoạt, công cụ gây án, thời gian xảy ra vụ án); các tình tiết bị hại đã có lời khai nhưng chưa rõ, chưa đầy đủ; các vấn đề mà KSV nghi ngờ việc điều tra không được khách quan, có vi phạm pháp luật.

- Chuẩn bị tài liệu, chứng cứ: Các tài liệu, chứng cứ sử dụng để đấu tranh với bị hại khi họ khai báo gian dối, từ chối khai báo hoặc dùng để đối chiếu, kiểm tra lời khai báo của họ, như các biên bản ghi lời khai của họ trước đây, biên bản hỏi cung bị can, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận định giá tài sản.

- Dự kiến chiến thuật lấy lời khai: Quá trình lấy lời khai bị hại có thể xuất hiện các tình huống như bị hại khai báo gian dối, từ chối khai báo, do đó, trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ và đặc điểm nhân thân của bị hại, KSV cần quan tâm chuẩn bị kỹ chiến thuật lấy lời khai trong từng tình huống để có sự chủ động, tránh lúng túng khi lấy lời khai.

- Hệ thống các câu hỏi cần đưa ra cho bị hại trả lời; các phương tiện kỹ thuật phục vụ hoạt động lấy lời khai như máy tính, máy in, máy ghi âm hoặc ghi hình.

Trước khi bắt đầu lấy lời khai, KSV dành thời gian hỏi thăm sức khỏe, hoàn cảnh gia đình, công việc; giải quyết các yêu cầu, đề nghị của bị hại; kiểm tra thông tin cá nhân, giải thích cho họ hiểu quyền và nghĩa vụ của mình.

leftcenterrightdel
 Lời khai của bị hại có nguồn chứng cứ quan trọng đối với vụ án (Ảnh: TTXVN)

Trước khi đặt ra các câu hỏi với bị hại, KSV nên yêu cầu họ trình bày hoặc tự viết về các tình tiết mà họ biết về vụ án, điều này là cần thiết vì trong thực tế, nhiều trường hợp bị hại khai ra các tình tiết mới mà hồ sơ vụ án chưa có, KSV chưa biết được, đồng thời cũng nhằm kiểm tra thái độ khai báo của họ mà định chiến thuật lấy lời khai phù hợp.

Trường hợp xác định bị hại khai báo thành khẩn, KSV sử dụng chiến thuật hỏi tuần tự, hỏi cụ thể, chi tiết về các tình tiết mà bị hại biết. Câu hỏi đưa ra cần phù hợp với độ tuổi, trình độ hiểu biết của họ; không được đưa ra các câu hỏi mang tính chỉ dẫn, gợi ý bị hại khai báo theo ý muốn chủ quan của KSV.

Trường hợp bị hại từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối, KSV sử dụng các tài liệu, chứng cứ đã chuẩn bị trước để thuyết phục họ khai báo thành khẩn, vạch trần mâu thuẫn trong lời khai của họ, phân tích cho họ biết rõ hậu quả của việc từ chối khai báo, khai báo gian dối.

KSV lập biên bản lấy lời khai bị hại theo quy định tại Điều 133 BLTTHS và theo mẫu số 125/HS ban hành kèm theo Quyết định số 15/2018/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Sau khi lấy lời khai phải chuyển biên bản này cho Điều tra viên (ĐTV) để lưu vào hồ sơ vụ án.

Kiểm sát việc lấy lời khai bị hại

KSV có thể kiểm sát việc lấy lời khai bị hại bằng hai phương thức: kiểm sát trực tiếp hoặc kiểm sát gián tiếp thông qua nghiên cứu biên bản ghi lời khai bị hại.

leftcenterrightdel
  Nghiên cứu, trao đổi về vụ án 

Trường hợp kiểm sát trực tiếp, KSV kiểm sát việc giải thích quyền và nghĩa vụ đối với bị hại quy định tại Điều 62 BLTTHS; kiểm sát thành phần tham gia lấy lời khai. Xem xét việc đặt câu hỏi của ĐTV, bảo đảm không có việc gợi ý, định hướng lời khai theo ý muốn chủ quan của ĐTV; quan sát cử chỉ, hành động của bị hại để đánh giá thái độ, tính chân thực trong lời khai báo của họ.

Nếu phát hiện việc lấy lời khai chưa đầy đủ hoặc mâu thuẫn với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, KSV yêu cầu ĐTV hỏi thật kỹ và chi tiết để làm rõ, yêu cầu bị hại giải thích về lời khai có mâu thuẫn, vì sao họ biết về các tình tiết mà họ trình bày (họ trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy hay do người khác kể lại)

Khi lập biên bản lấy lời khai, nếu bị hại không biết chữ, bị hại có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc lý do khác mà không thể ký được biên bản lấy lời khai, KSV đề nghị ĐTV mời người chứng kiến việc lập biên bản. Kiểm tra, đối chiếu kỹ giữa biên bản lấy lời khai với thực tế lấy lời khai, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung trước khi ký tên vào biên bản. Trường hợp ĐTV không đồng ý với yêu cầu của KSV thì cũng phải ghi rõ vào biên bản.

Trường hợp không tham gia việc lấy lời khai của ĐTV, KSV đề nghị ĐTV chuyển biên bản ghi lời khai bị hại để kiểm sát. Tiến hành nghiên cứu, xem xét hình thức của biên bản, việc giải thích quyền, nghĩa vụ, giải quyết các yêu cầu, đề nghị của bị hại; nghiên cứu nội dung lời khai của bị hại, đồng thời đối chiếu, so sánh với các lời khai trước đó và với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, qua đó phát hiện những vấn đề chưa được làm rõ, các mâu thuẫn chưa giải quyết để có kế hoạch điều tra làm rõ.

Nếu phát hiện việc lấy lời khai bị hại có vi phạm, tùy tính chất, mức độ vi phạm, KSV trao đổi, đề nghị ĐTV khắc phục hoặc báo cáo lãnh đạo Viện xem xét, quyết định. Các vi phạm thường xảy ra như: một số câu hỏi thể hiện trong biên bản có tính chất gợi ý; chưa phổ biến quyền, nghĩa vụ của bị hại; bị hại chưa trình bày rõ vì sao biết được các tình tiết của vụ án; sai sót trong việc ghi thời gian, địa điểm... 

Anh Minh