leftcenterrightdel

Theo quy định tại Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, có 03 loại chủ thể có quyền thu thập chứng cứ, đó là: Cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án; Người bào chữa; Những người tham gia tố tụng khác: bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào biết về vụ án.

Chứng cứ do những chủ thể này thu thập chỉ có thể dùng làm chứng cứ buộc tội hoặc gỡ tội khi tuân theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định. Nghĩa là, chứng cứ sau khi thu thập phải được chuyển giao cho cơ quan tiến hành tố tụng bằng biên bản giao nhận và phải được đưa vào hồ sơ vụ án (trừ những chứng cứ không thể đưa vào hồ sơ nhưng phải chụp ảnh để lưu vào hồ sơ vụ án) - Ở giai đoạn điều tra thì chuyển giao cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; ở giai đoạn truy tố thì chuyển giao cho Viện kiểm sát; ở giai đoạn xét xử thì chuyển giao cho Tòa án.

So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 có mở rộng hơn về chủ thể thu thập chứng cứ, quy định thêm người bào chữa cũng có quyền thu thập chứng cứ, đồng thời quy định chặt chẽ hơn trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ. Theo đó, mọi chứng cứ thu thập phải được Viện kiểm sát thông qua hoạt động kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Đặc biệt, điểm mới căn bản của BLTTHS năm 2015 quy định ở giai đoạn điều tra, người bào chữa, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền thu thập chứng cứ nhưng phải chuyển giao cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Và nếu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp thu thập chứng cứ mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát, thì trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày thu thập chứng cứ, tài liệu, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển giao chứng cứ, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu chứng cứ, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng chứng cứ, tài liệu đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Nếu những chứng cứ, tài liệu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp thu thập chứng cứ mà có Kiểm sát viên trực tiếp kiểm sát thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không cần phải chuyển giao chứng cứ, tài liệu cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án.

Do đó, vai trò của Viện kiểm sát trong việc thu thập chứng cứ là rất quan trọng, chỉ những chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án được Viện kiểm sát đóng dấu bút lục mới có giá trị pháp lý và được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án. Ngược lại, những chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án không được Viện kiểm sát đóng dấu bút lục sẽ không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án.

VKSND tối cao đã quy định mẫu dấu bút lục trong ngành Kiểm sát, các VKSND cấp tỉnh đã đặt làm và cấp phát cho các đơn vị nghiệp vụ. Nhưng thực tiễn hiện nay cho thấy, các đơn vị nghiệp vụ và VKSND cấp huyện đang  rất lúng túng. Sau khi nhận hồ sơ vụ án từ Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển đến, các Kiểm sát viên VKS không biết phải đóng dấu bút lục như thế nào cho đúng, cho đủ, cho chính xác; đóng dấu bằng loại mực gì? màu mực? đóng dấu bút lục ở vị trí nào trên tài liệu, biên bản đã được thu thập?

Hiện nay, BLTTHS năm 2015 đã có hiệu lực hơn 01 tháng nhưng vẫn chưa được Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, VKSND tối cao, TAND tối cao hướng dẫn về vấn đề này. Thiết nghĩ, liên ngành Trung ương cần sớm ban hành thông tư liên tịch quy định thống nhất về việc đánh bút lục trong kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án và việc đánh bút lục trong việc lập hồ sơ vụ án hình sự.

Nguyễn Tấn Cường