Theo đó, Nghị quyết này hướng dẫn áp dụng một số quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 86/2025/QH15 về chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân đối với người bị kết án tử hình trước ngày 1/7/2025 mà chưa thi hành án.
Trường hợp chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân, tại Điều 2 Nghị quyết số 03/2025/NQ-HĐTP nêu rõ: Người bị kết án tử hình trước ngày 1/7/2025 mà chưa thi hành án thì được chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Bị mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối quy định tại điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14, Luật số 59/2024/QH15 và Luật số 86/2025/QH15 (Bộ luật Hình sự).
Bị kết án tử hình về một trong các tội: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109); Tội gián điệp (Điều 110); Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 114); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194); Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250); Tội tham ô tài sản (Điều 353); Tội nhận hối lộ (Điều 354) và Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 421).
Bị kết án tử hình về Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248) hoặc Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251) nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Khối lượng, thể tích chất ma túy được xác định trong bản án để quyết định hình phạt bằng hoặc thấp hơn khối lượng, thể tích chất ma túy thấp nhất quy định tại khoản 5 Điều 248 hoặc khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
    |
 |
| Quang cảnh phiên toà xét xử phúc thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo Thái Khắc Thành trong vụ án “Gà lôi trắng”. (Ảnh minh hoạ) |
Khối lượng, thể tích chất ma túy được xác định trong bản án để quyết định hình phạt lớn hơn khối lượng, thể tích chất ma túy thấp nhất quy định tại khoản 5 Điều 248 hoặc khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự mà người phạm tội không phải là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy hoặc không có 2 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trở lên.
Về chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Hình sự, Điều 3 Nghị quyết nêu rõ:
Người bị kết án tử hình mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối được xem xét, chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân phải có kết luận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp chuyên sâu theo quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh và văn bản hướng dẫn thi hành xác định họ mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối. Kết luận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tính từ thời điểm ban hành đến thời điểm Chánh án TAND tối cao xem xét, quyết định là không quá 6 tháng.
Sau khi nhận được văn bản của trại tạm giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại tạm giam Công an cấp tỉnh về việc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Hình sự hoặc trong quá trình rà soát, phát hiện người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Hình sự, Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải lập danh sách người được chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân và gửi danh sách này cùng hồ sơ vụ án, tài liệu kèm theo đến VKSND tối cao.
Ngay sau khi nhận được danh sách người được chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân cùng hồ sơ vụ án, tài liệu kèm theo và ý kiến của VKSND tối cao, Chánh án TAND tối cao xem xét, quyết định chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.
Ngoài ra, tại Điều 8 Nghị quyết hướng dẫn việc xem xét chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.
Cụ thể: Chánh án TAND tối cao xem xét, quyết định chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân như sau:
Trường hợp người bị kết án không được chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân thì Chánh án TAND tối cao thông báo bằng văn bản cho cơ quan lập danh sách, cơ quan khác có liên quan (nếu có).
Trường hợp người bị kết án được chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân thì Chánh án TAND tối cao ra quyết định chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.
Quyết định tại điểm b khoản 1 Điều này được gửi cho Văn phòng Chủ tịch nước, VKSND tối cao, Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm, trại tạm giam nơi đang giam giữ người bị kết án và người bị kết án.
Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được Quyết định chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân của Chánh án TAND tối cao, Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án hình phạt tù chung thân đối với người được chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.
Thời gian người bị kết án tử hình bị tạm giam trước khi được chuyển thành tù chung thân được tính vào thời hạn chấp hành án phạt tù.
Nghị quyết này được Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thông qua ngày 30/9/2025 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/11/2025.