(BVPL) - Nhà thơ Thanh Tịnh (1911 – 1988) là một nhà tiếu lâm, những chuyện vui của ông có thể xếp thành rừng, nhiều sách báo đã kể, bạn đọc không mấy xa lạ. Là một người nhiều năm được sống gần ông, tôi thấy một góc “rừng cười” của ông chưa mấy người biết đến, xin kể hầu quý vị, cũng là để kỷ niệm 25 năm ông từ giã cõi đời này.
Hơn ba chục năm “ăn cơm tập thể, ngủ giường cá nhân”, nhà thơ Thanh Tịnh từng làm chủ hôn cho không biết bao nhiêu đám cưới. Dưới thời ông làm Chủ nhiệm (Tổng biên tập) tạp chí Văn nghệ Quân đội, hầu như cán bộ nào trong cơ quan xây dựng gia đình cũng muốn được ông làm chủ hôn, vừa trang nghiêm, lại vui nhộn và với tài ứng xử của ông, có thể giải quyết êm xuôi mọi trắc trở. Và đặc biệt là lời phát biểu cuối cùng của ông, bao giờ cũng đầy bất ngờ, đem lại tiếng cười thoải mái. Tôi nhớ lần ấy là đám cưới họa sĩ Hà Trì, một người gắn bó lâu năm với tạp chí Văn nghệ Quân đội. Khi phát biểu cuối hôn lễ, nhà thơ Thanh Tịnh nhân danh cán bộ cơ quan chúc cô dâu chú rể bách niên giai lão. Lặng một chốc, nhà thơ chuyển gam, nói rằng khi anh chị sinh cháu thì cho ông được phép đặt tên cho cháu. Họa sĩ Hà Trì hết sức cảm động vì nghĩ rằng, mình là họa sĩ, hạn chế về mặt ngôn ngữ nên được nhà thơ nổi tiếng đặt tên hộ cho con mình thì còn gì bằng, nên vội rút ngay quyển sổ tay ra, nói: “Thưa anh, anh định đặt tên cho cháu là gì, nói cho vợ chồng em ghi, kẻo sau quên mất”. Nhà thơ Thanh Tịnh dõng dạc:
- Nếu đẻ con trai đầu lòng, tôi đề nghị đặt tên là Hà Bá hoặc Hà Thủ Ô. Còn nếu con gái thì Hà Xa Đại Táo Hoàn.
Cả hội trường cười bung. Hà Trì lúc đầu định ghi, nhưng sau chợt hiểu ra, cũng cười và nhét vội sổ tay vào túi áo.
Còn trong đám cưới nhà thơ Lê Thành Nghị, chủ hôn Thanh Tịnh phát biểu căn dặn cô dâu, chú rể theo một cách khác, cũng hết sức bất ngờ:
- Thưa bà con hai họ. Để giữ trọn vẹn hạnh phúc gia đình, các cụ ta ngày xưa dạy rằng: “Chồng giận thì vợ làm lành/Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì”. Nhưng đối với nhà thơ Lê Thành Nghị, tôi thấy nên sửa câu ca dao trên cho phù hợp, dù không được vần lắm, là: “Vợ giận thì chồng làm lành/Miệng cười hớn hở rằng em giận gì?”. Vì sao lại thế? Là vì, cô dâu của đám cưới này chính là Trương… Phi. Ai không tin, mời xem lại thiếp mời đám cưới.
Sau đó là tiếng rào rào của mọi người lật giở thiếp mời và tiếng cười mỗi lúc một to. Đúng tên cô dâu là Trương Thị Kim Phi!
2- Chuyện ở cơ quan
A - Đó là vào những năm đầu của thập kỷ tám mươi, đời sống cực kỳ khó khăn, lâu lâu cơ quan mới lĩnh được những món hàng phân phối. Có lần mỗi nhà văn được phân một lạng thịt bò, mà nhà văn Hải Hồ đựng vào vỏ bao thuốc Tam Đảo chưa đầy! Nhưng thịt bò dù ít song còn có thể chia được, khổ nhất là những thứ không chia được, nhiều khi rất khó xử: Ví như có lúc nhà văn Xuân Sách và nhà văn Nguyễn Thị Như Trang bắt thăm trúng được một chiếc màn đôi. Anh em cười mà rằng: “Thôi, không thể chia ra được, chỉ còn cách ngủ chung”. Cả buổi bắt thăm chia hàng phân phối, nhà thơ Thanh Tịnh không nói gì, nhưng tối hôm đó, sau bữa cơm, ông gọi tôi lên phòng ông xem ti vi. Tôi hiểu là có chuyện gì ông muốn nói với tôi, chứ ti vi thì cần gì phải mời, tối nào tôi chẳng lên đó, vì cả khu chỉ một mình phòng ông có. Sau khi pha nước mời tôi và hỏi tôi có nhận xét gì về phòng đồ cổ của ông, rồi ông trở lại chuyện hàng phân phối ban ngày của cơ quan. Ông nói:
- Mình biết Vương Trọng cũng thích chơi chữ và câu đối. Sáng nay dự cuộc phân phối hàng, mình có nghĩ ra một vế câu đối thật hay, Vương Trọng có đối được không? Vế ra đó là: “Cái cứt gì cũng phân, mà phân thì như cứt”.
Tôi nhẩm lại từng lời và thấy rằng, nửa đầu nói mọi thứ đều phân phối, nửa sau nói phân phối chả ra sao, với cách nói dân gian của kẻ bực mình. Hơn ba chục năm trời, tôi vẫn chưa tìm được một vế đối vừa ý, vẫn còn nợ ông và có lẽ đó là “món nợ khó trả”.
B - Dạo ấy tự dưng cơ quan xẩy ra chuyện mất vặt. Một đêm, nhà thơ Thu Bồn nghe tiếng động, thức dậy lẻn ra ngoài thấy thằng trộm đang lấy áo quần anh em phơi trên dây. Thu Bồn tóm lấy thằng trộm rồi hô hoán anh em thức dậy, mở túi du lịch mà thằng trộm đã nhét đầy quần áo, rồi mọi người nhận quần áo của mình. Thu Bồn lục hết túi của thằng trộm vẫn không sao thấy được cái áo “bay” rất thời thượng của ông. Mãi tới khi giải thằng trộm ra gần đồn Công an, Thu Bồn mới ớ lên một tiếng: Thì ra thằng trộm đã mặc cái áo bay của Thu Bồn trước khi cho các thứ khác vào túi. Hôm sau cơ quan họp bàn chuyện bảo vệ cơ quan. Đợi cho anh em phát biểu hết ý kiến, cuối cùng nhà nhơ Thanh Tịnh đứng dậy, ông nói:
- Ngôi nhà số bốn Lý Nam Đế chúng ta đạt ba tiêu chí: dân tộc, khoa học và đại chúng. Dân tộc vì có mái cong trông rất Việt Nam và rất cổ kính. Khoa học vì nhà có hệ thống lò sưởi, thoáng khí, mát về mùa hè, ấm về mùa đông. Còn đại chúng là ở chỗ… ai muốn vào thì vào, muốn ra thì ra, khi nào cũng được. Tôi đề nghị bớt cái tính chất đại chúng ấy đi, cử người bảo vệ…
Mọi người cùng cười. Thì ra ý của ông là thế, nói như thế mới là Thanh Tịnh.
C - Sau khi về hưu, nhà thơ Thanh Tịnh còn ở lại căn phòng của ông ở số 4 Lý Nam Đế mấy năm trước khi chuyển về nhà riêng. Dạo ấy Trưởng ban Trị sự Doãn Trung thỉnh thoảng có xoay được một ít thực phẩm về chia cho anh em cải thiện. Những năm đầu, Phó Tổng biên tập Xuân Thiều luôn nhớ suất của nguyên Chủ nhiệm Thanh Tịnh, nhưng thời gian về sau, những khi số thực phẩm ít, Xuân Thiều có lúc cũng “quên” đi. Một hôm, Xuân Thiều từ tầng hai đang đi xuôi cầu thang, bất chợt gặp nhà thơ Thanh Tịnh xách nước đi ngược lên, vì phòng ở của ông không có nước. Thanh Tịnh dừng lại lưng chừng cầu thang để thở, đáp lời chào của Xuân Thiều bằng một câu hỏi hết sức bất ngờ:
- Xuân Thiều ơi, sau này khi mình chết đi, cơ quan có làm một bát cơm quả trứng để cúng mình không?
Xuân Thiều ngạc nhiên:
- Sao anh lại nói thế? Khi anh đi, không những bát cơm quả trứng, mà còn bao nhiêu thứ để cúng anh nữa chứ!
- Thế thì mình nói thật nhé: Lúc đó chẳng cần cúng đâu. Có gì bây giờ cho mình ăn đôi miếng còn hơn.
Xuân Thiều sực nhớ tới chuyện tổ Hành chính đang chia thịt, vội nhắc chị Định bổ sung thêm một suất cho cựu Chủ nhiệm.
D - Năm 1980, thằng con trai đầu bốn tuổi lên ở cùng tôi trong căn phòng tập thể. Chiều chiều tôi thường ngồi bón cơm cho cháu ở thềm nhà và hai bố con chơi đùa với nhau. Một hôm hai bố con đang vui vẻ cười đùa thì ngước lên thấy nhà thơ Thanh Tịnh đứng cách đấy chừng dăm mét đang quan sát. Thì ra ông đã đứng đó khá lâu, nhưng bố con tôi không để ý. Đáp lời chào của tôi, Thanh Tịnh đọc:
“Bố cho con ăn, con cười, bố cười” như để tặng bố con tôi. Rồi ông quay gót bước đi, ngẫm về thế thái nhân tình, chậm rãi đọc tiếp:
“Con cho bố ăn, bố khóc, con khóc”.
Thì ra, một góc “rừng cười” của ông, chưa chắc đã là cái để cười, mà thấm vào lòng ta, buộc ta ngẫm nghĩ…
3 - Cách nói Thanh Tịnh
Xin trích vài câu đối thoại với khách của nhà thơ Thanh Tịnh:
- Thưa bác, năm nay bác mấy mươi tuổi rồi ạ ?
- Năm sinh của tôi có ghi ở Nhà hát lớn Hà Nội (1911).
- Bác dạo này có ăn được không ạ?
- Sao anh không hỏi tôi, có được ăn không?
- Đi đâu về mà một mình thế bác?
- Trẻ con thích đi thành đàn, thanh niên thích đi thành đôi, còn ông già chỉ đi từng người một.
…
Vương Trọng