|
|
Diễn đàn: “Trách nhiệm cộng đồng và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050”. |
Tham dự diễn đàn có TSKH. Phan Xuân Dũng - Chủ tịch Liên Hiệp Hội; TS. Tạ Đình Thi - Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học công nghệ và Môi trường của Quốc hội; ông Nguyễn Linh Ngọc - Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam; ông Tăng Thế Cường - Cục trưởng, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường); ông Lương Quang Huy - Trưởng phòng Cục Biến đổi khí hậu; ông Hoàng Văn Tâm - Phó Chánh Văn phòng Biến đổi khí hậu và Tăng trưởng xanh Vụ tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững - Bộ Công Thương, ông Nguyễn Quang Huân - Đại biểu Quốc hội khóa XV, Ủy ban Khoa học công nghệ & Môi trường Quốc hội; ông Phạm Nam Hưng - Cục biến đổi khí hậu; ông Nguyễn Văn Minh - Trường phòng Cục biến đổi khí hậu; ông Nguyễn Văn Toàn - Phó chủ tịch Hội, Tổng biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống; bà Ngụy Thị Giang - Chủ tịch HĐQT Công ty CP Sáng tạo Xanh.
Với sự phối hợp của Cục Biến đổi khí hậu (DCC), Liên Hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam (AWATEN) và Tạp chí Môi trường và Cuộc sống, cùng sự đồng hành của GreenIN tổ chức chuỗi sự kiện: "Cộng đồng và Doanh nghiệp với Quy định giảm phát thải khí nhà kính và cơ chế Carbon".
Nằm trong chuỗi sự kiện, diễn đàn lần này với chủ đề: “Trách nhiệm cộng đồng và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050” sẽ là nơi để các đại biểu, nhà khoa học và doanh nghiệp trao đổi, thảo luận, đánh giá đúng hiện trạng phát triển hiện nay và xác định những hướng mới cũng như đề xuất các biện pháp mới để chung tay thực hiện mục tiêu cũng như cam kết của Việt Nam tại COP 26 là phấn đấu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
|
|
TS. Nguyễn Linh Ngọc - Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam phát biểu tại Diễn đàn. |
Phát biểu khai mạc diễn đàn, TS. Nguyễn Linh Ngọc - Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam cho biết: Những năm gần đây, trên thế giới và Việt Nam liên tục xuất hiện các hiện tượng thiên nhiên bất thường như hạn hán, lũ lụt, động đất… do biến đổi khí hậu làm hàng ngàn người chết và mất tích, thiệt hại vật chất không thể đong đếm được. Đây đang là một trong những vấn đề nghiêm trọng, có thể nói đây là một thách thức lớn đối với toàn nhân loại. Nguyên nhân chính được ghi nhận là do lượng phát thải khí nhà kính không có xu hướng giảm trong những năm qua. Nếu trường hợp tình trạng này còn gia tăng, nó sẽ làm nặng nề thêm những thay đổi của khí hậu toàn cầu cũng như gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với tự nhiên và con người.
Để giảm những hậu quả do biến đổi khí hậu gây ra, điều quan trọng là phải giảm phát thải khí nhà kính. Tại Việt Nam, giảm phát thải nhà kính đã được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030; Chiến lược quốc gia về chống biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050, đồng thời, đưa ra một lộ trình tổng thể nhằm hiện thực hóa các mục tiêu khí hậu đã cam kết bằng việc tạo hành lang pháp lý, thúc đẩy và hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp, các ngành, các địa phương cùng có trách nhiệm giảm phát thải…
|
|
TSKH. Phan Xuân Dũng - Chủ tịch Liên Hiệp Hội Việt Nam phát biểu tại Diễn đàn. |
Phát biểu tại Diễn đàn, TSKH. Phan Xuân Dũng - Chủ tịch Liên Hiệp Hội Việt Nam cho biết: Diễn đàn: Trách nhiệm cộng đồng và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 một Hội thảo rất quan trọng, là một mục tiêu lớn. Vấn đề của Hội thảo này cần sự cố gắng quyết tâm cả hệ thống chính trị.
Như chúng ta đã biết, mục tiêu của Đảng và Nhà nước là vào năm 2050 phát thải ròng bằng 0. Để đạt được mục tiêu này rất cần nhiều yếu tố, nỗ lực chung đặc biệt quan trọng là những đóng góp, kiến nghị của các nhà khoa học, chuyên gia về môi trường, công nghệ. Vì vậy thông qua các báo cáo của các chuyên gia hôm nay để kiến nghị lên Quốc hội, từ đó Quốc hội có những chỉ đạo thiết thực để thực hiện mục tiêu này, ông Dũng cho biết thêm.
Phát biểu tại Diễn đàn, đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường ông Tăng Thế Cường - Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu cho biết, Việt Nam cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, đây là xu thế, con đường chính sách pháp luật theo dòng tích cực cùng với thế giới, vấn đề trách nhiệm cộng đồng và doanh nghiệp Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, là vấn đề đặc biệt quan trọng góp phần trong bối cảnh Việt Nam cùng thế giới chung tay ứng phó với biến đổi khí hậu tích cực đòi hỏi chúng ta có những hành động thiết thực nhằm thực hiện chính sách, cũng như chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
Đặc biệt, thực hiện Nghị quyết XIII của Đảng trong đó có những nội dung về ứng phó biến đổi khí hậu. Đồng thời, Luật bảo vệ môi trường 2020 đánh dấu mốc quan trọng, mô hình chuyển từ nâu sang xanh. Trong đó có một chương về ứng phó biến đổi khí hậu, hàng loạt các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, trong đó Bộ Tài Nguyên và Môi trường đã tham mưu văn bản quy phạm pháp luật, theo đó, tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính hướng đến, lộ trình giảm phát thải khí carbon, ông Cường cho biết thêm.
Quy định pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Chia sẻ về vấn đề này, ông Lương Quang Huy - Trưởng phòng, Cục Biến đổi khí hậu cho biết: Việt Nam là 1 trong 141 quốc gia thông qua Tuyên bố GLASGOW của các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất.
Tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có 03 Điều về ứng phó với biến đổi khí hậu giao Chính phủ quy định chi tiết, Đồng thời tại Nghị định 06/2022-NĐ-CP quy định chi tiết về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
Theo đó, mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC); Lộ trình chia theo 02 giai đoạn: Từ nay đến hết năm 2025 và từ năm 2026 đến hết năm 2030; Giai đoạn từ năm 2026 đến hết năm 2030 sẽ thực hiện các biện pháp thực hiện giảm nhẹ phát thải theo kế hoạch.
Thách thức và cơ hội trong nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính từ việc sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng tại Việt Nam
|
|
Ông Hoàng Văn Tâm – Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững – Bộ Công Thương phát biểu tham luận tại Diễn đàn. |
Nói về vấn đề này, ông Hoàng Văn Tâm – Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững – Bộ Công Thương cho biết: Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong công nghiệp – Thuận lợi và khó khăn trên lộ trình đóng góp vào mục tiêu phát thải ròng bằng 0. Xu thế toàn cầu hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Nói về những thuận lợi, ông Tâm chia sẻ: Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả gồm: Nghị định số 21/2011/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thực hiện Luật TKNL Nghị định số 17/2022/NĐ-CP bổ sung một số điều NĐ 134/2013/NĐ- CP (sử dụng NL TK&HQ); Thông tư quy định định mức tiêu hao năng lượng trong các ngành công nghiệp (Thép, hóa chất, giấy, mía đường, nhựa, chế biến thủy hải sản,...) đã được ban hành.; Chương trình quốc gia về sử dụng NL TKHQ giai đoạn 2019-2030 (VNEEP3); Quyết định của Thủ tướng Chính phủ hàng năm về danh mục các cơ sở tiêu thụ năng lượng trọng điểm; Công nghệ về TKNL ngày càng phát triển Thị trường các thiết bị điện hiệu suất cao ngày càng phát triển; TKNL là xu thế chung của thế giới; Nhận thức của xã hội về TKNL ngày càng cao; Các vấn đề năng lượng trong bối cảnh biến đổi khí hậu và khủng hoảng năng lượng đã làm nổi bật vai trò của TKN; Các nguồn lực tài chính quan tâm đến các dự án xanh, giảm phát thải khí nhà kính (Các chương trình, dự án quốc tế về TKNL); Sự hỗ trợ của nhà nước đối với hoạt động TKNL (VNEEP3).
Bên cạnh đó còn những khó khăn, vướng mắc như: Khó khăn Nguồn lực tài chính và cơ chế khuyến khích cho đầu tư TKNL chưa tương xứng với nhu cầu; Nhận thức của bộ phận doanh nghiệp, đặc biệt là người đứng đầu chưa cao. Các chính sách về giá năng lượng chưa tạo động lực cho đầu tư về TKNL; Năng lực triển khai các giải pháp và dự án đầu tư TKNL còn hạn chế.
|
|
Ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường. |
Tác động của cơ chế điều chỉnh biên giới Các bon tới hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp Việt Nam và giải pháp thích ứng
Tại Diễn đàn, ông Nguyễn Quang Huân - Đại biểu Quốc hội khóa XV, Ủy ban KHCN& Môi trường Quốc hội đã có ý kiến nhằm đưa ra những tác động của chính sách Carbon xuyên biên giới tới hoạt động XNK của doanh nghiệp Việt Nam và giải pháp thích ứng cụ thể: Đối với Việt Nam, cam kết NET-ZERO (phát thải ròng bằng 0) vào 2050 (COP26). Việt Nam cũng như các nước đang phát triển đứng trước thách thức vừa giữ nhịp tăng trưởng nhanh và tăng trưởng sạch.
Tại Luật Bảo vệ Môi trường 2020: Điều 139 - Tổ chức & phát triển thị trường các-bon (cơ chế cụ thể chưa được ban hành, chưa quy định chi tiết bằng Nghị định, Thông tư, hướng dẫn).
Tại Diễn đàn ông Nguyên Quang Huân đề xuất kiến nghị giải pháp: Lập mô hình tài chính – kỹ thuật nhằm đạt Netzero (2050) và phân bổ theo các ngành. Xây dựng chính sách áp thuế các bon cho các mặt hàng trong nước. Nghiên cứu cơ chế hoạt động của thị trường tín chỉ các-bon trên thế giới & áp dụng sớm tại Việt Nam (từ 2023).
Giảm phát thải khí nhà kính, trách nhiệm của doanh nghiệp về lập kế hoạch và báo cáo
Tại diễn đàn, ông Phạm Nam Hưng - Cục Biến đổi khí hậu đã nhấn mạnh các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính lĩnh vực năng lượng. Sử dụng năng lượng: Thiết bị dân dụng, thương mai dịch vụ, Sử dụng khí sinh học tại nông thôn. Sản xuất vật liệu xây dựng và các phân ngành công nghiệp khác. Giao thông vận tải Sản xuất năng lượng: Phát triển năng lượng tái tạo (gió, mặt trời, thủy điện nhỏ, điện rác, điện sinh khối, LNG). Tiềm năng giảm phát thải:
Các biện pháp giảm phát thải trong Đóng góp không điều kiện của lĩnh vực năng lượng gồm 37 biện pháp, có thể giảm được 382,66 triệu tấn CO2tđ trong cả giai đoạn 2021-2030 và 64,78 triệu tấn CO2tđ vào năm 2030.
Các biện pháp giảm phát thải trong Đóng góp không điều kiện của lĩnh vực chất thải, gồm 6 biện pháp, có thể giảm được 39,56 triệu tấn CO2tđ trong cả giai đoạn 2021-2030 và 8,72 triệu tấn CO2tđ vào năm 2030.
Các biện pháp giảm phát thải trong Đóng góp có điều kiện của lĩnh vực chất thải có thể giảm được 102,78 triệu tấn CO2tđ trong cả giai đoạn 2021-2030 và 20,7 triệu tấn CO2tđ vào năm 2030.
Trách nhiệm thực hiện kiểm kê KNK: Cung cấp số liệu hoạt động, thông tin liên quan phục vụ kiểm kê khí nhà kính của cơ sở của năm trước kỳ báo cáo theo hướng dẫn của bộ quản lý lĩnh vực trước ngày 31 tháng 3 kể từ năm 2023; Tổ chức thực hiện kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở, xây dựng báo cáo kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở định kỳ hai năm một lần cho năm 2024 trở đi.
Lộ trình phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam, vai trò doanh nghiệp
|
|
Ông Nguyễn Quang Huân - Đại biểu Quốc hội khóa XV, Ủy ban KHCN& Môi trường Quốc hội phát biểu tại Diễn đàn. |
Để có cái nhìn rõ hơn về lộ trình phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, và vai trò của doanh nghiệp, Tiến sĩ Nguyễn Văn Minh - Trưởng phòng, Cục biến đổi khí hậu cho biết, Luật BVMT năm 2020 đã quy định về tổ chức và phát triển thị trường các bon trong nước, với lộ trình vận hành chính thức từ năm 2028. Đây là căn cứ pháp lý mới nhất quy định về tổ chức và phát triển thị trường các bon. Thị trường các bon trong nước bao gồm các hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các bon, bù trừ tín chỉ các bon. Để hướng dẫn, triển khai thực hiện, ngày 7/1/2022, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) và bảo vệ tầng ô dôn. Trên cơ sở đó, Bộ trưởng Bộ TN&MT ban hành Thông tư số 01/2022/TT-BTNMT quy định chi tiết thi hành Luật BVMT về ứng phó với BĐKH. Đây là những văn bản pháp luật quan trọng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BĐKH, hiện thực hóa các các cam kết của Việt Nam về giảm KNK, khi bước sang giai đoạn thực hiện các yêu cầu bắt buộc của Thỏa thuận Paris về BĐKH.
Nói về quyền lợi và trách nhiệm của doanh nghiệp, Tiến sĩ Nguyễn Văn Minh cho rằng khi tham gia vào thị trường các-bon, doanh nghiệp được thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon và được đầu tư, kinh doanh hạn ngạch phát thải khí nhà kính, tín chỉ các-bon trên thị trường các-bon. Tuy nhiên, để được hưởng hai lợi ích trên, doanh nghiệp cần phải chủ động tìm hiểu quy định pháp luật về giảm phát thải khí nhà kính; tìm hiểu về thị trường các-bon và tăng cường năng lực về kiểm kê khí nhà kính; Tăng cường năng lực về thực hiện hoạt động giảm phát thải khí nhà kính, cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon.
Để làm được điều trên, doanh nghiệp phải cung cấp thông tin, dữ liệu hoạt động phục vụ kiểm kê khí nhà kính, thực hiện kiểm kê khí nhà kính và xây dựng và thực hiện kế hoạch giảm phát thải khí nhà kính; báo cáo kết quả thực hiện, cũng như thực hiện báo cáo tình hình thực hiện chương trình, dự án đăng ký theo các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon.
Phát biểu bế mạc diễn đàn, ông Nguyễn Linh Ngọc - Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam nhận định, qua những ý kiến của các diễn giả trình bày tham luận tại diễn đàn, chúng ta nhìn nhận được việc cần phải chuyển đổi về công nghệ hướng đến tiết kiệm năng lượng và vấn đề giảm khí thải nhà kính, theo đó việc trồng rừng nhằm tận dụng nguồn tài chính từ tín chỉ các - bon, nếu chúng ta có thị trường các - bon minh bạch sẽ đóng góp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone, đặc biệt cộng đồng và doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trong việc giúp Việt Nam đạt các mục tiêu giảm thiểu phát thải khí nhà kính, để thực hiện cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.