Đây là một trong những nội dung tại buổi tọa đàm trực tuyến “Phát huy vai trò của doanh nghiệp trong nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức ngày 21/8, với sự tham gia của các chuyên gia lập pháp, kinh tế, lao động.

Có 4 vấn đề đã được đưa ra trong buổi tọa đàm: Mối quan hệ giữa năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh quốc gia; Thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam; Những rào cản - chủ quan và khách quan - mà doanh nghiệp gặp phải trong nỗ lực cải thiện sức cạnh tranh; các nhiệm vụ chủ chốt đặt ra đối với Chính phủ và doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, qua đó thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia.

Tại sự kiện, các chuyên gia đã đưa ra những thông tin và quan điểm đáng chú ý liên quan tới các vấn đề sức cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của quốc gia.

leftcenterrightdel
 Các chuyên gia lập pháp, kinh tế, lao động tham gia buổi tọa đàm.

Khi đề cập về mối quan hệ giữa năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh quốc gia, TS. Lưu Bích Hồ cho rằng, cần làm rõ hơn những khái niệm cơ bản, quan trọng về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh nói chung của đất nước bao gồm cả năng lực cạnh tranh quốc gia, cạnh tranh ngành, doanh nghiệp, sản phẩm.

“Năng lực cạnh tranh nói chung của đất nước - bao gồm năng lực cạnh tranh quốc gia, ngành, doanh nghiệp, sản phẩm có ý nghĩa sống còn với nền kinh tế thị trường”, TS. Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, khẳng định ngay phần mở đầu cuộc tọa đàm.

Vị chuyên gia trên cho biết, diễn đàn kinh tế thế giới khi đánh giá năng lực cạnh tranh xét trên những yếu tố và những tiêu chí sau với 12 trụ cột: thể chế; cơ sở hạ tầng; môi trường kinh tế vĩ mô; y tế và giáo dục phổ thông, giáo dục và đào tạo đại học; hiệu quả thị trường hàng hóa; hiệu quả thị trường lao động; phát triển thị trường tài chính; sẵn sàng về công nghệ; quy mô thị trường; mức độ tinh vi của các hoạt động kinh doanh; đổi mới sáng tạo.

leftcenterrightdel
 TS. Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển

Trong 12 trụ cột này, không có trụ cột nào không có mối quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Đây là năng lực cạnh tranh quốc gia nhưng trong từng yếu tố đó đều có doanh nghiệp trong đó.

Với tư cách là người công tác nhiều năm trong cơ quan lập pháp, ông Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, chia sẻ rằng, năng lực cạnh tranh quốc gia bao gồm cả hai phần là phần của kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô. Với góc độ của người làm công tác lập pháp, ông Kiên thiên về chính sách vĩ mô nhiều hơn.

Cụ thể, theo Phó Chủ nhiệm UB Kinh tế của Quốc hội, phần cơ sở hạ tầng xã hội có thể được đo lường bằng ba nhóm vấn đề lớn: thứ nhất, nhóm vấn đề về nguồn nhân lực, về con người; thứ hai, thể chế - tức là những quy định vận hành của ngành kinh tế; thứ ba, hệ thống pháp lý.

Đối với kinh tế vĩ mô cũng không có gì ngoài ba chân kiềng: thứ nhất, chính sách tiền tệ; thứ hai, chính sách tài khóa; thứ ba, chính sách cơ cấu, tổ chức ưu tiên ngành nghề, lĩnh vực nào để phát triển cho phù hợp với năng lực quốc gia.

TS Nguyễn Đức Kiên cho biết hiện nay, khi ra biển lớn, hội nhập doanh nghiệp Việt Nam bị 5 nhóm thách thức. Một là chiến lược kinh doanh không rõ ràng. Hai là công nghệ khoa học của doanh nghiệp trong nước so với thế giới ở mức sau doanh nghiệp nước ngoài 2 đến 3 thế hệ. Về năng lực, chúng ta thấy người Việt Nam vào môi trường công nghiệp thì họ thành công nhân chuyên nghiệp, nhưng ở Việt Nam thì lại vẫn mang thói quen sản xuất nhỏ. Thứ tư, chế độ đãi ngộ của những người làm trong doanh nghiệp là có vấn đề. Việc này lỗi ở những người làm công tác vĩ mô, nhìn người quản trị doanh nghiệp bằng như là công chức trong khi ở các nước khác người ta chỉ nhìn vào hiệu quả sử dụng đồng vốn. Cuối cùng là, sự liên kết để sản xuất cạnh tranh với các nước khác rất kém.

leftcenterrightdel

Ông Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội 

 Thành công của Tập đoàn nước uống Tân Hiệp Phát, là nhờ vào 3 yếu tố. Yếu tố thứ nhất họ chọn được thị trường đúng, đi vào thị trường từ trước đến nay đang bỏ ngỏ và có thị phần để mở rộng. Yếu tố thứ hai giúp họ trở thành doanh nghiệp đầu đàn trong lĩnh vực đồ uống là đi thẳng vào công nghệ hiện đại ngay. Công nghệ sản xuất của họ trình độ tương đương với các nước tiên tiến. Yếu tố thứ ba là họ biết họ yếu ở đâu. “Trong khi nhiều doanh nghiệp vẫn theo đuổi mô hình quản trị gia đình, hoặc cho rằng trong nước cũng có nhiều người có thể đảm nhận việc quản trị doanh nghiệp, thì Tân Hiệp Phát chọn nhân sự cấp cao nước ngoài để quản trị doanh nghiệp của mình. Đây cũng là một trong những yếu tố giúp họ chuyển mình thành công”, ông Kiên phân tích.

Rõ ràng, mục tiêu “vươn ra biển lớn” của các doanh nghiệp Việt Nam là rất đáng trân trọng, bởi chiến lược này giúp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, cũng như đặt dấu ấn thương hiệu Việt trên thị trường thế giới. Muốn hiện thực hóa mục tiêu đó, bản thân doanh nghiệp luôn cần nỗ lực hết mình, trong khi các nhà làm luật cũng phải bám sát thực tế, để hỗ trợ doanh nghiệp hiệu quả trong tình hình mới.

Hương Trà