(BVPL) - Mặc dù bị đơn và và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có đơn xin hoãn vắng mặt phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật, nhưng ngày 13/12/2012, Tòa phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao vẫn mở phiên xét xử phúc thẩm và tuyên y án khiến dư luận vô cùng bức xúc và khó hiểu!?

 
Từ tranh chấp hợp đồng
 
Ngày 02/03/2010, giữa Trung tâm Dịch vụ Viễn Thông khu vực 1 (VNP1) thuộc là đơn vị thành viên của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam và Công ty TNHH Thương mại Đầu tư Hồng Quang có ký kết Hợp đồng Đại lý cung cấp dịch vụ thông tin di động trả tiền trước số 04/VNP1-TĐL-HOG. Theo đó Trung tâm Dịch vụ Viễn Thông khu vực 1 giao cho Công ty Hồng Quang làm đại lý phân phối và bán lẻ tại Việt Nam các sản phẩm thẻ trả trước, mệnh giá nạp tiền qua SMS (E-Load), thẻ SIM, bộ trọn gói ban đầu, bộ hòa mạng máy đầu cuối có kèm tài khoản, các sản phẩm khác/Thiết bị USB Modem. 
 
Để đảm bảo thực hiện Hợp đồng và các thỏa thuận đã ký, Công ty Hồng Quang yêu cầu Ngân hàng Agribank, chi nhánh Hà Nội bảo lãnh nghĩa vụ thanh toán cho Công ty. Ngày 29/11/2010 và 20/12/2010, Agribank Hà Nội đã phát hành các bảo lãnh thanh toán cho Công ty Hồng Quang. Theo đó, Ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho Công ty Hồng Quang nếu Công ty Hồng Quang chậm thanh toán. Sau đó thì xảy ra tranh chấp hợp đồng này nên VNP1 đã khởi kiện Ngân hàng Agribank ra Tòa án.
 
Theo đó, trong vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại giữa nguyên đơn là Tập đoàn Bưu chính viễn thông và bị đơn là Ngân hàng Agribank Việt Nam, Công ty Hồng Quang là bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
 
Theo bà Phan Thị Hồng (Giám đốc Công ty Hồng Quang) nguyên nhân chính dẫn đến việc tranh chấp này là do Phía Trung tâm Dịch vụ Viễn Thông khu vực 1 đã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán quyền lợi SIM (bộ Kit) theo hợp đồng và thỏa thuận đã ký kết giữa hai bên, số lượng là 2.691.489 SIM. Cho đến 18-5-2011, phía Công ty Hồng Quang mới được phía Vinaphone bán Kit cho ba lần, với số lượng 3 vạn hộp Kit, một tỷ lệ rất nhỏ so với thoả thuận của hai bên. 
 
Hơn nữa trong bản thanh quyết toán công nợ ngày 01/06/2011 đã thống nhất được ký đóng dấu giữa hai bên với nội dung Trung tâm Dịch vụ Viễn Thông khu vực 1 nợ 2.691.489 bộ SIM,  Công ty Hồng Quang nợ 39.506.632.027 đồng về việc thanh toán tiền, đồng thời với việc trả dần SIM.
 
Nhưng vào ngày 02/06/2011, cũng ở phần cuối cùng của bản thanh quyết toán công nợ này, bên VNP1 đã tự ý viết tay thêm phần xác nhậnvào bản thanh quyết toán này mà không có sự thống nhất, ký tên và đóng dấu của công ty Hồng Quang trái với điều 3 của thỏa thuận ngày 18/10/2010 hai bên đã thống nhất và ký kết (Mọi sự thay đổi điều chỉnh phải được thẻ hiện bằng văn bản và có chữ ký xác nhận của mỗi bên mới có hiệu lực). Tuy nhiên VNP1 đã tự ý viết tay thêm vào:
“*VNP1 xác nhận:
1, Số tiền còn nợ trên bảo lãnh 48.184.875.000
2, Các chế độ khác theo thỏa thuận bán hàng ngày 18/10/2010 được cụ thể tại CV1838/VNP1 ngày 2/6/11”
 
Trong khi đôi bên còn chưa thực hiện được thoả thuận trên, thì VNPT cho rằng đến hạn, Công ty Hồng Quang không thanh toán số tiền còn hụt trên bảo lãnh và hết thời hạn bảo lãnh, Chi nhánh Agribank Hà Nội cũng không thực hiện trả nợ theo bảo lãnh do đó đã khởi kiện Chi nhánh Agribank Hà Nội ra Toà án nhân dân TP. Hà Nội, yêu cầu thanh toán số tiền 48.184.875.000 đồng và tiền lãi trên 6 tỉ đồng với lý do Chi nhánh Agribank Hà Nội là đơn vị bảo lãnh cho Công ty Hồng Quang.
 
Vi phạm tố tụng
 
Theo bản án sơ thẩm số 38/2012/KDTM - ST ngày 24/04/2012 của TAND TP. Hà Nội, thì Tòa này xác nhận Công ty Hồng Quang còn nợ VNP1 số tiền 48.184.875.000 đồng. Bản án cũng xác định, sau khi đối trừ tiền nợ và tiền chiết khấu bổ sung thì Công ty Hồng Quang còn nợ VNP1 trên 44.640.440.000 đồng và Chi nhánh Agribank Hà  Nội phải thanh toán số tiền này thay cho Công ty Hồng Quang cộng với tiền lãi là hơn 6,5 tỉ đồng.
 
Sau phiên sơ thẩm, Công ty Hồng Quang và Ngân hàng Agribank Việt Nam đã cùng kháng cáo bản án trên lên Tòa Phúc thẩm, TAND tối cao tại Hà Nội. 
 
Tại phiên phúc thẩm, Ngân hàng Agribank Việt Nam có đơn xin hoãn phiên tòa và Công ty Hồng Quang cũng có đơn xin hoãn phiên tòa vì lý do sức khỏe của người đại diện theo pháp luật của Công ty không đảm bảo, đang phải điều trị hội chứng rối loạn tiền đình tại Bệnh viện quân y 108 (có tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo đơn xin hoãn phiên tòa). Theo quy định của pháp luật thì trường hợp các đương sự kháng cáo vắng mặt lần thứ 2 có lý do chính đáng, Tòa án phải hoãn phiên tòa phúc thẩm, không được xét xử vắng mặt các đương sự.
 
Tuy nhiên, Tòa phúc thẩm TAND tối cao vẫn xét xử vụ án, vắng mặt cả hai đương sự có kháng cáo. Việc xét xử của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội là vi phạm nghiêm trọng Bộ Luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP và Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP.
 
Được biết, vì lý do trên, Công ty Hồng Quang khiếu nại bản án sơ thẩm số 38/2012/KDTM-ST ngày 24/04/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và bản án phúc thẩm số 206/KDTM-PT ngày 13/12/2012 của Tòa Phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, đề nghị Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC xem xét kháng nghị bản án số 206/KDTM-PT ngày 13/12/2012 theo thủ tục giám đốc thẩm.
 
Đức Bình - Ngọc Đức