TAND tỉnh Phú Yên vừa mở phiên tòa xét xử theo thủ tục phúc thẩm vụ án tranh chấp ly hôn giữa nguyên đơn bà V.T.Q. với bị đơn ông N.V.N. Theo trình bày của nguyên đơn: Bà Q. và ông N. tự nguyện tìm hiểu, tổ chức cưới và đăng ký kết hôn vào năm 1991. Vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn.
Theo bà Q. nguyên nhân do lối sống không phù hợp, không cùng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra cự cãi, bạo lực gia đình, mục đích hôn nhân không đạt được. Bà Q. nhận thấy không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung với ông N. sống nên yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông N.
|
|
Ông N. cho rằng vợ cằn nhằn mọi lúc kể cả khi ăn cơm (ảnh minh họa). |
Về con chung, vợ chồng có 4 con chung thì ba người đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết, người con còn lại được quyền lựa chọn ở với bố hoặc mẹ, người không được con lựa chọn ở cùng thì không phải cấp dưỡng tiền nuôi con.
Về tài sản chung, vợ chồng có 1 ngôi nhà cấp 4 trên diện tích đất khoảng 1.800m² (659,4m² theo bản vẽ); 11 con bò; 2,5 ha rẫy bạch đàn… Nợ ngân hàng 50 triệu đồng tiền gốc và tiền lãi hơn 14 triệu đồng; nhờ một người con đứng tên vay giúp ở ngân hàng 12 triệu đồng; nợ bà A. hơn 55 triệu đồng.
Nay vợ chồng ly hôn, bà Q. xin nhận tài sản chung là căn nhà cấp 4 cùng toàn bộ diện tích đất (659,4m² theo bản vẽ), giao cho ông N. nhận 11 con bò và 2,5 ha rẫy bạch đàn. Đối với khoản nợ ngân hàng thì trong quá trình tòa giải quyết ly hôn ông N. đã trả số tiền này, nay bà Q. đồng ý trả lại cho ông N. số tiền mà ông đã trả. Đối với số nợ hơn 55 triệu đồng thì chia đôi mỗi người trả một nửa.
Phía bị đơn ông N. thống nhất với nguyên đơn về quan hệ hôn nhân, con chung, quá trình kết hôn đúng như bà Q. trình bày. Còn mâu thuẫn vợ chồng thì do bà Q. không tin tưởng chồng, nghi ngờ ông N. có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Ông N. đi làm về mệt, bà Q. cằn nhằn mọi lúc kể cả khi ăn cơm nên ông N. bực mình có bạt tai một cái, rồi bà Q. bỏ đi chứ không đánh đập như bà Q. trình bày.
Nay bà Q. xin ly hôn mặc dù không còn tình cảm nhưng vì con còn nhỏ nên ông N. không đồng ý ly hôn để có cả cha lẫn mẹ chăm sóc con đàng hoàng. Nay hai người tự sống không phụ thuộc lẫn nhau, việc ai người đó tự làm không ai quan tâm đến ai. Nếu tòa giải quyết ly hôn ông N. xin nhận nuôi con chung N.V.L., không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, vợ chồng có 1 ngôi nhà cấp 4 trên diện tích đất khoảng 1.000m², phần còn lại là đất 5% của xã ông N. phải thuê đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; 11 con bò; 2,5 ha rẫy bạch đàn. Vợ chồng có nợ ngân hàng như nguyên đơn trình bày. Còn khoản nợ bà A., ông N chỉ thừa nhận có vay mượn 2,5 triệu đồng, số nợ còn lại ông không biết nên không chịu trách nhiệm trả.
Bà Q. khi bỏ đi đã bán lúa rồi mang tiền đi hết không để lại cho cha con ông nên ông phải vay của người tên L. 10 triệu đồng, phải trả lãi 40 ngàn đồng/tháng để trang trải, trả các khoản thuế, tiền cám bò, máy tuốt và tiền phân. Ông Na đề nghị Tòa giải quyết tính giá trị trả nợ cho hai ngân hàng, phần còn lại chia làm 3 phần cho hai vợ chồng và con N.V.L. Khoản vay 10 triệu đồng ông tự vay nên tự chịu trách nhiệm trả.
Xử sơ thẩm, TAND huyện H. chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn, bà V.T.Q. được ly hôn ông N.V.N. Về con chung, giao con chung tên N.V.L. (SN 2007) cho ông N. tiếp tục nuôi dưỡng. Bà Q. không phải cấp dưỡng nuôi con, có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
Về tài sản chung, giao cho bà Q. được quyền sử dụng đất và sở hữu nhà cùng các công trình xây dựng trên đất, tổng giá trị hơn 323 triệu đồng. Giao cho ông N. được quyền sở hữu 11 con bò; 2,5 ha bạch đàn, tổng trị giá hơn 319 triệu đồng. Bà Q. phải trả cho ông N. phần chênh lệch tài sản được nhận hơn 2,2 triệu đồng…
Về các khoản nợ của vợ chồng, buộc bà Q., ông N. phải trả trả cho bà A. số tiền vay còn nợ hơn 55,4 triệu đồng chia đôi cho 2 người. Bà Q. phải có trách nhiệm trả lại cho ông N. số tiền 37 triệu đồng về khoản tiền ông N. đã trả cho ngân hàng nhưng khấu trừ số tiền chi phí định giá và xem xét thẩm định tại chỗ 3,6 triệu đồng; nên bà Q. còn phải trả cho ông N. hơn 33 triệu đồng.
|
|
Vợ chồng bà Q. ông N. tranh chấp đàn bò khi ly hôn (ảnh minh họa). |
Sau khi án tuyên, ông N. kháng cáo bản án về tài sản chung, nợ chung. Xử phúc thẩm, TAND tỉnh Phú Yên nhận định: Tại Toà cấp phúc thẩm, ông N. khai sau khi bà Q. bỏ đi vào tháng 5/2021 ông là người quản lý tài sản, quá trình chăm sóc đàn bò ông đã mua nợ tiền cám bò 13,5 triệu đồng, vay ông V. 35 triệu đồng, mượn ông T. 3 triệu đồng, trả thuế ruộng lúa, xây nhà chứa rơm, thú y, cắt lúa... tổng cộng 65,7 triệu đồng nên yêu cầu bà Q. phải cùng có trách nhiệm trả nợ.
Bà Q. khai trước khi bà bỏ đi không sống chung với ông N. vào tháng 5/2021 vợ chồng có nuôi 11 con bò. Sau đó, ông N. bán hai con bò trị giá 70,6 triệu đồng. Như vậy, để giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đảm bảo quyền và lợi ích các bên đương sự khi chia tài sản chung cần làm rõ số lượng đàn bò trước khi và sau khi bà Q. bỏ đi, có việc ông N. bán bò hay không?.
Sử dụng tiền bán bò vào mục đích gì?. Từ thời điểm bà Q. bỏ đi đến thời điểm định giá tài sản ông N. trực tiếp chăm đàn bò nên cũng cần làm rõ các khoản tiền ông N. đã chi phí hợp lý nuôi bò, xây nhà chứa rơm... để có cơ sở buộc bà Q. cùng chịu trách nhiệm các khoản tiền này. Đồng thời, ông N. cũng yêu cầu chia số vàng 3 chỉ bà Q. đang quản lý và 2 chỉ vàng thục ruộng của mẹ bà Q.; đây là tình tiết mới phát sinh tại cấp phúc thẩm, chưa được xem xét tại cấp sơ thẩm.
Từ đó, TAND tỉnh Phú Yên đã tuyên hủy một phần bản án sơ thẩm về tài sản chung và nợ chung, giao hồ sơ cho TAND huyện H. xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.