Những năm gần đây, xu hướng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài khá phổ biến. Có những cuộc hôn nhân xuất phát từ tình cảm chân thành, bên cạnh đó, cũng có không ít trường hợp chị em phụ nữ do hoàn cảnh kinh tế khó khăn đã lựa chọn con đường kết hôn với người nước ngoài với mong muốn thay đổi được cuộc sống.

Đa số chị em phụ nữ qua sự mai mối quen biết rồi kết hôn với người nước ngoài với mong muốn xây dựng một gia đình hạnh phúc, thế nhưng, hôn nhân của họ luôn tiềm ẩn rủi ro dẫn đến ly hôn và chỉ dừng lại ở việc chỉ đăng ký kết hôn tại nước sở tại, mà quên đi một thủ tục quan trọng là ghi chú kết hôn tại Việt Nam. Chính sự thiếu hiểu biết này dẫn đến nhiều rắc rối về mặt pháp lý gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của chính người phụ nữ và con cái của họ.

leftcenterrightdel
 Ảnh minh hoạ.

Qua câu chuyện xét xử một vụ án “Xin ly hôn có yếu tố nước ngoài” tại Tòa án nhân dân tỉnh An Giang mới đây giữa bà Nguyễn Ngọc T khởi kiện xin ly hôn với ông C.W (quốc tịch Trung Quốc) thấy rằng: Bà T là người Việt Nam kết hôn với ông C.W người Trung Quốc, đã đăng ký kết hôn tại Trung Quốc. Vợ chồng chung sống một thời gian, do bất đồng quan điểm phát sinh mâu thuẫn dẫn đến ly thân, bà T trở về Việt Nam khởi kiện xin ly hôn với ông C.W tại Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án ly hôn, bà T cung cấp chứng cứ, trong đó có Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn giữa bà T với ông C.W tại Trung Quốc để chứng minh hôn nhân hợp pháp. Mặc dù, việc bà T và ông C.W đã đăng ký kết hôn tại Trung Quốc theo pháp luật của nước sở tại thì hôn nhân giữa bà T với ông C.W là hôn nhân hợp pháp, nhưng bà T chưa thực hiện thủ tục ghi chú kết hôn tại Việt Nam theo quy định của pháp luật. Tại Điều 38 Luật Hộ tịch năm 2014 và Điều 34 Nghị định 123/2015/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 07/2025/NĐ-CP) quy định công dân Việt Nam đã đăng ký kết hôn ở nước ngoài, nếu muốn được pháp luật Việt Nam công nhận thì phải thực hiện thủ tục ghi chú kết hôn tại Cơ quan hộ tịch có thẩm quyền ở Việt Nam. Nếu không ghi chú, quan hệ hôn nhân đó không có giá trị pháp lý tại Việt Nam.

Mặc dù Tòa án đã thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà T nhưng về mặt pháp luật tại Việt Nam, quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông C.W không được công nhận là hôn nhân hợp pháp nên Tòa án buộc phải tuyên: “Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Ngọc T và ông C.W”.

Do việc kết hôn với người nước ngoài tuy có đăng ký ở nước sở tại nhưng không thực hiện thủ tục ghi chú kết hôn ở Việt Nam thì không được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Việc thiếu sót này cho thấy, từ sự thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc chủ quan trong thủ tục pháp lý có thể khiến hôn nhân của nhiều phụ nữ Việt Nam rơi vào tình trạng có hôn nhân hợp pháp ở nước ngoài nhưng quan hệ hôn nhân của họ lại không được pháp luật Việt Nam công nhận.

Do đó, khi có kết hôn và đã có đăng ký kết hôn ở nước ngoài thì việc thực hiện thủ tục ghi chú kết hôn tại Việt Nam còn mang một ý nghĩa rất quan trọng nhằm bảo đảm quyền lợi hôn nhân hợp pháp cho chính bản thân mình, đảm bảo quyền cư trú, khai sinh cho con, quốc tịch và thuận lợi trong việc đăng ký cư trú cho vợ, chồng và con cái. Ngoài ra, khi có tranh chấp ly hôn, cấp dưỡng, tài sản và thừa kế…thì Tòa án Việt Nam mới có cơ sở pháp lý giải quyết.

Qua trường hợp của bà Nguyễn Ngọc T có thể thấy, chỉ một sơ sót nhỏ trong thủ tục pháp lý sẽ khiến quyền lợi của người phụ nữ hoặc con cái bị ảnh hưởng. Vì vậy, khi kết hôn với người nước ngoài, cần tìm hiểu kỹ quy định pháp luật Việt Nam. Việc thực hiện thủ tục ghi chú kết hôn không chỉ là điều kiện để pháp luật Việt Nam công nhận quan hệ hôn nhân hợp pháp mà còn là cách để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bản thân, con cái và cũng là trách nhiệm sống tuân thủ pháp luật./.

Trần Lành, VKSND tỉnh An Giang