    |
 |
Quang cảnh Hội thảo. Ảnh: VPQH cung cấp. |
Trong khuôn khổ Hội thảo khoa học cấp Quốc gia: “Quốc hội Việt Nam – 80 năm hình thành và phát triển” do Đảng ủy Quốc hội phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các đại biểu đã được nghe nhiều tham luận, trong đó có tham luận của Hội đồng Lý luận Trung ương với nhan đề: “Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng xuyên suốt 80 năm hình thành và phát triển Quốc hội Việt Nam”; tham luận của Ủy ban Pháp luật và Tư pháp với nhan đề: “Những thành tựu trong hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội qua 80 năm xây dựng, phát triển và đổi mới”; tham luận của Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội với nhan đề: “Quốc hội Việt Nam – 80 năm hình thành và phát triển về hoạt động giám sát”. 3 tham luận đề cập đến 3 thành tựu nổi bật khác nhau trong tổng thể những thành tựu của Quốc hội trong suốt quá trình 80 năm hình thành và phát triển.
Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng xuyên suốt 80 năm hình thành và phát triển Quốc hội Việt Nam
Trình bày tham luận với nhan đề: “Sự lãnh đạo toàn diện của Đảng xuyên suốt 80 năm hình thành và phát triển Quốc hội Việt Nam” tại Hội thảo, GS.TS Tạ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương cho biết, sự hình thành và phát triển của Quốc hội Việt Nam luôn gắn liền với vai trò lãnh đạo xuyên suốt và toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam.
    |
 |
GS.TS Tạ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương trình bày tham luận. Ảnh: VPQH cung cấp. |
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc vào ngày 25/11/1945, nhấn mạnh nhiệm vụ cấp bách là “xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy định hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức”.
Chỉ thị này còn hướng dẫn chi tiết về việc bố trí người ứng cử trong Tổng tuyển cử, đảm bảo sự cân bằng giữa đảng viên, người của các đoàn thể trong mặt trận và người ngoài mặt trận, đồng thời linh hoạt tăng số lượng đảng viên ứng cử ở những tỉnh có thế lực đối lập mạnh. Với sự lãnh đạo chặt chẽ, Tổng tuyển cử thành công, đại biểu Việt Minh chiếm đa số, Quốc hội đầu tiên đã thông qua Hiến pháp tiến bộ, tạo nền tảng pháp lý vững chắc.
Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất, Đảng tiếp tục lãnh đạo Quốc hội xây dựng Hiến pháp năm 1959. Các cuộc bầu cử Quốc hội khóa II đến khóa V đều được Đảng lãnh đạo chặt chẽ từ yêu cầu, thời điểm bầu cử, cơ cấu đại biểu đến phương hướng lựa chọn ứng cử viên.
Sau khi thống nhất đất nước, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 228-CT/TW vào ngày 3/1/1976 để chỉ đạo cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước, khẳng định tầm quan trọng quyết định của cuộc bầu cử này đối với việc thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước. Ngày 25/4/1976, trên 23 triệu cử tri đã nô nức đi bầu cử, đánh dấu thắng lợi quyết định của nhân dân ta trên con đường thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước.
    |
 |
Các đại biểu tham dự Hội thảo. Ảnh: VPQH cung cấp. |
Bước vào công cuộc đổi mới, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đảng luôn khẳng định Quốc hội giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội cũng là cơ quan giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Các chức năng cơ bản của Quốc hội bao gồm lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể gồm: lập hiến và lập pháp; giám sát tối cao; quyết định các chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; phê chuẩn, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức vụ cao cấp của Nhà nước; quyết định về tài chính, ngân sách; quyết định về vấn đề chiến tranh và hòa bình; và thực hiện các quyền khác theo Hiến pháp và pháp luật.
Theo GS.TS Tạ Ngọc Tấn, để đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Đảng đặt ra mục tiêu xây dựng Quốc hội vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Theo đó, cần: đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng công tác lập pháp (bao gồm việc đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm” và tháo gỡ các “điểm nghẽn” pháp lý theo phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm), tăng cường hiệu quả công tác giám sát, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đổi mới phương thức hoạt động của Quốc hội, tăng cường mối quan hệ với Nhân dân và hợp tác quốc tế…
Những thành tựu trong hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội qua 80 năm xây dựng, phát triển và đổi mới
Trình bày tham luận với nhan đề: “Những thành tựu trong hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội qua 80 năm xây dựng, phát triển và đổi mới”, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Trần Hồng Nguyên cho biết, trong suốt 80 năm qua, Quốc hội Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong hoạt động lập hiến và lập pháp, khẳng định vị thế và đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của đất nước.
    |
 |
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Trần Hồng Nguyên trình bày tham luận. Ảnh: Báo ĐBND. |
Theo đó, hoạt động lập hiến, lập pháp đã thể hiện sâu sắc vị trí, vai trò của Quốc hội. Các bản Hiến pháp và hàng trăm đạo luật được thông qua là sự đúc kết ý chí chung của nhân dân, khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Bên cạnh đó, hoạt động lập hiến và lập pháp đã đóng góp tích cực vào những thành tựu trong các giai đoạn phát triển của đất nước. Mỗi bản Hiến pháp, mỗi đạo luật đều phản ánh nhu cầu thực tiễn và phục vụ các mục tiêu chiến lược, từ giành độc lập, thống nhất đến đổi mới và hội nhập quốc tế.
Cùng với đó, hoạt động lập hiến, lập pháp còn đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố khối đại đoàn kết dân tộc; góp phần quan trọng vào tiến trình hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; tư duy lập hiến, lập pháp ngày càng được đổi mới; quy trình, kỹ thuật lập pháp ngày càng hoàn thiện, theo hướng chặt chẽ, khoa học, chuyên nghiệp và dân chủ…
Trong bối cảnh hiện nay, theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội Trần Hồng Nguyên, Quốc hội cần tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động lập hiến, lập pháp.
Theo đó: tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật; triển khai mạnh mẽ tư duy lập hiến, lập pháp mới theo hướng kiến tạo và dự báo, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp; định hướng xây dựng pháp luật để tận dụng cơ hội từ cách mạng công nghiệp 4.0; cải tiến quy trình, kỹ thuật lập pháp; đề cao vai trò của nhân dân, khuyến khích sự tham gia rộng rãi và thực chất của nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật; và hoàn thiện cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật.
Quốc hội Việt Nam – 80 năm hình thành và phát triển về hoạt động giám sát
Trình bày tham luận với nhan đề: “Quốc hội Việt Nam – 80 năm hình thành và phát triển về hoạt động giám sát”, Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội Dương Thanh Bình cho biết, hoạt động giám sát của Quốc hội có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong cơ chế tổ chức, thực thi, kiểm soát quyền lực và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Đặc biệt, trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ, tinh gọn bộ máy nhà nước, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, hoạt động giám sát càng trở nên thiết yếu để đáp ứng yêu cầu “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”.
    |
 |
Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội Dương Thanh Bình trình bày tham luận. Ảnh: VPQH cung cấp. |
Lịch sử hoạt động giám sát của Quốc hội qua các nhiệm kỳ cho thấy sự phát triển liên tục. Theo đó, Quốc hội khóa I (1946-1960) dành trọng tâm cho lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng, chức năng giám sát được quy định ngắn gọn trong Hiến pháp 1946. Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn đã được thực hiện ngay từ Kỳ họp thứ 2.
Trong 20 năm tiếp theo (khóa II-VI, 1960-1981), hoạt động giám sát dần được chú trọng và thực hiện theo Hiến pháp 1959.
Giai đoạn Quốc hội khoá VII (1981-1987) và khoá VIII (1987-1992), giám sát tập trung chủ yếu vào xét báo cáo tại Kỳ họp và thành lập các đoàn giám sát tại địa phương; hoạt động chất vấn đã có bước cải tiến.
Từ Quốc hội khoá IX đến khoá XIV (1992-2021), hoạt động giám sát tiếp tục được đổi mới toàn diện hơn, ngày càng hiệu quả. Từ năm 1994, các phiên chất vấn tại Kỳ họp Quốc hội đã được phát thanh và truyền hình trực tiếp. Hoạt động “hậu giám sát” lần đầu tiên được tổ chức tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII và được chú trọng, đẩy mạnh tại nhiệm kỳ khóa XIV. Tháng 8/2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội lần đầu tiên tiến hành chất vấn, giám sát lại việc thực hiện các nghị quyết, kết luận về giám sát chuyên đề và chất vấn. Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII, việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn lần đầu tiên được thực hiện nghiêm túc, dân chủ, công tâm, khách quan.
Đến nay, Quốc hội khóa XV tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát với nhiều điểm nhấn: Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế về hoạt động giám sát được tăng cường, đặc biệt là chỉ đạo nghiên cứu đề xuất sửa đổi toàn diện Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân; Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội và phiên họp của UBTVQH đảm bảo đúng quy định, sát thực tiễn;…
Để tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI và các khóa tiếp theo, theo Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát Dương Thanh Bình, cần chú trọng các phương hướng đổi mới: Phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện và trực tiếp của Đảng; Tiếp tục đổi mới tư duy giám sát theo hướng giải quyết hài hòa lợi ích của nhà nước, người dân và doanh nghiệp, chủ động kiến tạo chính sách pháp luật; Hoạt động giám sát phải gắn chặt với thực tiễn và tiếng nói của người dân, tăng cường khảo sát tại cơ sở, lắng nghe ý kiến từ cử tri và cộng đồng doanh nghiệp; Nghiên cứu, rà soát, sửa đổi toàn diện các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, trọng tâm là sửa đổi Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, thiết lập cơ chế bảo đảm sự gắn kết giữa hoạt động giám sát và hoạt động lập pháp…