Một trong những nội dung được các doanh nghiệp quan tâm trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế (có hiệu lực thi hành từ 1/7/2013) là quy định về thời hạn nộp thuế, ân hạn thuế.
 


Về thời hạn nộp thuế, theo quy định của Luật, chậm nhất là ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế. Trường hợp cơ quan thuế tính thuế hoặc ấn định thuế, thời hạn nộp thuế là thời hạn ghi trên thông báo của cơ quan thuế.

Đối với hàng hóa nhập khẩu: hàng hóa là nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu, thời hạn nộp thuế tối đa là 275 ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan nếu doanh nghiệp đáp ứng đủ 4 điều kiện: doanh nghiệp phải có cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu trên lãnh thổ Việt Nam; Có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian ít nhất hai năm liên tục tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan mà không có hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, nợ tiền thuế quá hạn, tiền chậm nộp, tiền phạt. Ngoài ra, doanh nghiệp phải tuân thủ pháp luật về kế toán, thống kê và thực hiện thanh toán qua ngân hàng theo quy định của pháp luật.

Cũng theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Quản lý thuế, trường hợp không đáp ứng 4 điều kiện trên nhưng được Tổ chức tín dụng bảo lãnh số thuế phải nộp thì thời hạn nộp thuế theo thời hạn bảo lãnh, nhưng không quá 275 ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan và không phải nộp tiền chậm nộp trong thời hạn bảo lãnh. Trong trường hợp không đáp ứng các điều kiện nêu trên hoặc không được tổ chức tín dụng bảo lãnh thì phải nộp thuế trước khi được thông quan hoặc giải phóng hàng hóa.

Đối với hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất phải nộp thuế trước khi hoàn thành thủ tục hải quan tạm nhập khẩu hàng hóa. Trường hợp được tổ chức tín dụng bảo lãnh số thuế phải nộp thì thời hạn nộp thuế theo thời hạn bảo lãnh nhưng không quá 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm nhập, tái xuất và không phải nộp tiền chậm nộp trong thời hạn bảo lãnh.

Hàng hóa không thuộc các điểm nêu trên thì phải nộp thuế trước khi thông quan hoặc giải phóng hàng hóa. Trường hợp được tổ chức tín dụng bảo lãnh số thuế phải nộp thì được thông quan hoặc giải phóng hàng hóa nhưng phải nộp tiền chậm nộp kể từ ngày được thông quan hoặc giải phóng hàng hóa đến ngày nộp thuế theo quy định tại Điều 106 của Luật và thời hạn bảo lãnh tối đa là 30 ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan.

Bên cạnh đó, nhằm tăng cường sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật Quản lý thuế cũng quy định mức phạt chậm nộp cao hơn so với trước. Theo đó, tại khoản 32, Điều 1 quy định: “Người nộp thuế chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định,… thì phải nộp đủ tiền thuế và tiền chậm nộp theo mức lũy tiến 0,05%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đối với số ngày chậm nộp không quá 90 ngày; mức 0,07%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp vượt quá thời hạn 90 ngày”. Thời hạn tính phạt chậm nộp kể từ ngày được thông quan hoặc giải phóng hàng hóa.

Ngoài ra, một điểm đáng lưu ý, đó là việc áp dụng cơ chế quản lý rủi ro trong quản lý thuế đã được quy định cụ thể trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế. Việc áp dụng cơ chế quản lý rủi ro trong quản lý thuế bao gồm: thu thập thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế; xây dựng các bộ tiêu chí quản lý thuế; đánh giá việc tuân thủ pháp luật của người nộp thuế; đề xuất, áp dụng các biện pháp quản lý thuế.

Theo ông Cao Anh Tuấn - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, khi Luật có hiệu lực thi hành, việc kiểm tra sau hoàn thuế được thực hiện theo nguyên tắc quản lý rủi ro trong thời hạn 10 năm, kể từ ngày có quyết định hoàn thuế. Tuy nhiên, đối với 4 đối tượng có độ rủi ro cao, cơ quan Thuế phải kiểm tra trong thời hạn 1 năm kể từ khi có quyết định hoàn thuế, bao gồm: Cơ sở kinh doanh kê khai lỗ 2 năm liên tục hoặc có số lỗ vượt quá vốn chủ sở hữu; Cơ sở kinh doanh thay đổi trụ sở từ 2 lần trở lên trong vòng 12 tháng kể từ ngày có quyết định hoàn thuế trở về trước; Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế từ hoạt động kinh doanh bất động sản; kinh doanh thương mại, dịch vụ; Cơ sở kinh doanh có sự thay đổi bất thường giữa doanh thu tính thuế và số thuế được hoàn trong giai đoạn 12 tháng, kể từ ngày có quyết định hoàn thuế trở về trước.
 

Nguyễn Anh