(BVPL) - Được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003, quá trình triển khai thi hành Bộ luật TTHS năm 2003 đã nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành  án  hình sự và đã góp phần tích cực vào việc đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, qua việc tổng kết thực tiễn 8 năm thi hành Bộ luật TTHS năm 2003, nhiều khó khăn, vướng mắc đã được chỉ ra...
 


Về các nguyên tắc cơ bản

Về chế định các nguyên tắc cơ bản, còn thiếu một số nguyên tắc cơ bản hoặc một số nguyên tắc đã có nhưng chưa phản ánh đầy đủ tư tưởng, định hướng về cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế như nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc miễn tố, nguyên tắc suy đoán vô tội...; một số nguyên tắc trong Bộ luật TTHS hiện hành còn bất cập, chưa rõ ràng, gây khó khăn cho việc áp dụng; một số nguyên tắc không phải là nguyên tắc cơ bản, chỉ khái quát về chức năng, thẩm quyền hoặc trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng (THTT) trong một giai đoạn tố tụng nhất định. Nguyên tắc “Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân” (Điều 4) chưa thể hiện đầy đủ việc tôn trọng và bảo vệ tất cả các quyền, lợi ích hợp pháp của mọi cơ quan, tổ chức khi bị hành vi phạm tội xâm hại; chưa quy định trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra (Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm…) trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Nguyên tắc “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS, trừ trường hợp phạm tội quả tang” (Điều 6) chưa phù hợp với trường hợp bắt khẩn cấp, bắt truy nã vì thực tế các trường hợp này, Cơ quan điều tra (CQĐT) tiến hành bắt được đối tượng mới báo cho VKS cùng cấp bằng văn bản và các tài liệu liên quan để xem xét việc phê chuẩn. Nguyên tắc “Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân” (Điều 7) quy định còn chung chung, mang tính hình thức, không khả thi. Nguyên tắc “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 9) chưa phản ánh đầy đủ nội dung, yêu cầu của “nguyên tắc suy đoán có tội” nên trong thực tiễn còn xảy ra tình trạng các cơ quan tư pháp đối xử với người bị bắt, bị can, bị cáo như người có tội, định kiến trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên tắc “Xác định sự thật của vụ án” (Điều 10) quy định, Tòa án có trách nhiệm chứng minh tội phạm là chưa phù hợp vì chứng minh tội phạm là hoạt động mang tính buộc tội, thuộc trách nhiệm của CQĐT, VKS, Tòa án chỉ có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án. Nguyên tắc “Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án” (Điều 13) quy định, Tòa án có quyền khởi tố vụ án không phù hợp với chức năng xét xử của Tòa án và hầu như không được áp dụng trong thực tế, trong khi đó, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền khởi tố, điều tra thì không quy định trách nhiệm này. Nguyên tắc “Tòa án xét xử tập thể” (Điều 17) chưa phù hợp với việc tăng cường áp dụng thủ tục rút gọn, làm cho việc giải quyết vụ án theo thủ tục này kéo dài. Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án” (Điều 19) mới chỉ yêu cầu bảo đảm sự bình đẳng trước Tòa án (trong giai đoạn xét xử) là chưa phù hợp với yêu cầu tăng cường tranh tụng, bảo đảm sự bình đẳng trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nguyên tắc “Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS” (Điều 23) quy định trách nhiệm của VKS rất lớn nhưng chưa quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hiện các chức năng này; thiếu cơ chế đảm bảo thực hiện hiệu quả trách nhiệm được giao; không có nội dung “miễn tố” là không phù hợp với chính sách hình sự tiến bộ hiện nay vì việc truy tố hay không truy tố phải kết hợp hài hòa giữa lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân. Nguyên tắc “Trách nhiệm của tổ chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” (Điều 25) chưa quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc không thông báo hoặc cung cấp không chính xác thông tin tội phạm cho các cơ quan bảo vệ pháp luật. Nguyên tắc “Giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan THTT, người THTT” (Điều 32) chưa nêu rõ tính chất và nội dung cơ chế giám sát của nhân dân nên việc giám sát này vẫn mang tính hình thức, chưa phát huy hiệu quả.

Cơ quan và người tiến hành tố tụng

Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan THTT, người THTT chưa rõ ràng. Một số quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 chưa trên cơ sở nhận thức đầy đủ về sự tồn tại và vận hành của các chức năng cơ bản trong TTHS (buộc tội - bào chữa - xét xử) nên quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan THTT còn chưa phù hợp, vẫn còn quy định một chủ thể THTT có nhiều nhiệm vụ, quyền hạn thuộc các chức năng khác nhau của TTHS, là một trong những nguyên nhân xảy ra tình trạng mâu thuẫn, trùng giẫm nhiệm vụ, quyền hạn hoặc đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan THTT. Đối với CQĐT và cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra: CQĐT chủ yếu thuộc cơ quan hành pháp nên chưa bảo đảm tính độc lập trong hoạt động điều tra, xử lý tội phạm. Không có cơ quan được giao trách nhiệm đầu mối quản lý toàn bộ tố giác, tin báo về tội phạm; việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm chỉ giao cho CQĐT và VKS là chưa phù hợp... Việc phân định thẩm quyền điều tra giữa các cấp CQĐT trong cùng hệ thống chưa phù hợp; CQĐT Bộ Công an còn thụ lý, điều tra nhiều vụ việc thuộc thẩm quyền CQĐT cấp dưới. Thẩm quyền của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chưa được quy định đầy đủ như: thẩm quyền thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can… (Điều 13, 104, 106, 126, 127). Các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra không được quy định là cơ quan THTT, không có Điều tra viên dẫn đến những bất cập cả trên phương diện nhận thức và thực tiễn hoạt động tố tụng. Đối với VKS: VKS có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nhưng Bộ luật TTHS còn thiếu các quy định để VKS thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, dẫn đến VKS còn thụ động trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. VKS có trách nhiệm phê chuẩn quyết định khởi tố bị can nhưng thiếu các cơ chế để VKS thực hiện tốt trách nhiệm này. Thời hạn xem xét phê chuẩn quá ngắn (3 ngày) nên trong nhiều trường hợp chỉ xem xét trên cơ sở tài liệu, báo cáo của CQĐT; quy định giới hạn VKS chỉ có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố của CQĐT (Điều 104), chỉ khởi tố bị can sau khi nhận hồ sơ và bản kết luận điều tra mà phát hiện có người khác thực hiện hành vi phạm tội chưa được khởi tố (Điều 126) là không phù hợp với vai trò, trách nhiệm của cơ quan thực hành quyền công tố… VKS là cơ quan chịu trách nhiệm trong việc để xảy ra oan, sai ngay sau khi VKS phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam của CQĐT. Tuy nhiên, Bộ luật TTHS lại không quy định biện pháp chế ước trong trường hợp CQĐT và Điều tra viên không thực hiện các yêu cầu của VKS (Điều 114) nên nhiều yêu cầu của VKS không được thực hiện. Các biện pháp pháp lý để phát hiện vi phạm và kiến nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm chưa có cơ chế ràng buộc các đối tượng vi phạm phải thực hiện; chưa phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử. Đối với Tòa án, Tòa án là cơ quan xét xử nhưng lại đang được pháp luật giao thực hiện một số thẩm quyền không phù hợp với chức năng xét xử, ảnh hưởng đến yêu cầu bảo đảm sự khách quan trong TTHS như: thẩm quyền khởi tố vụ án. Quy định giới hạn xét xử để ràng buộc phạm vi xét xử của Tòa án, tuy nhiên, Bộ luật lại cho phép Tòa án được xét xử về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố (Điều 196) là không phù hợp vì VKS không truy tố thì Hội đồng xét xử không có căn cứ để xét xử bị cáo, mặt khác ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền bào chữa của bị cáo. Thẩm quyền xét xử của Tòa án trong một số trường hợp chưa được Bộ luật điều chỉnh… Mặt khác, chưa có sự phân định rõ giữa thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp của những người đứng đầu các cơ quan THTT. Quy định về thẩm quyền của  những người trực tiếp THTT (Điều tra viên, KSV, Thẩm phán) chưa phù hợp. Quy định về việc phân công THTT giữa Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng CQĐT, giữa Viện trưởng và Phó Viện trưởng VKS, giữa Chánh án và Phó Chánh án Tòa án (các Điều 34, 36, 38) còn chưa cụ thể, rõ ràng. Các thẩm quyền tố tụng tập trung chủ yếu vào Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng VKS. Điều tra viên, KSV là những người trực tiếp tiến hành hầu hết các hoạt động tố tụng nhưng quyền năng pháp lý thì hạn chế… Chưa xác định được nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp Điều tra viên, KSV; giữa Điều tra viên, KSV được phân công thụ lý chính đối với vụ án với các Điều tra viên, KSV khác tham gia vào việc giải quyết vụ án và với trách nhiệm của người đứng đầu các CQĐT, VKS.

Người tham gia tố tụng

Địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của một số người tham gia tố tụng chưa được quy định đầy đủ, cụ thể, ảnh hưởng đến các quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án hình sự: Chưa quy định địa vị pháp lý của một số loại người tham gia tố tụng như người bị tình nghi, người chứng kiến; quyền của người tham gia tố tụng chưa được quy định đầy đủ như quyền đề xuất thu thập tài liệu, đồ vật, quyền đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án, quyền từ chối lấy lời khai hay hỏi cung, quyền tham gia vào một số hoạt động điều tra, quyền được nhận các quyết định tố tụng; chưa quy định cụ thể trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết yêu cầu của người tham gia tố tụng, các biện pháp và thủ tục bảo vệ người làm chứng, chưa quy định cụ thể tiêu chuẩn của người phiên dịch… Việc tham gia tố tụng của người bào chữa còn bất cập, hạn chế; quy định diện người bào chữa còn hẹp; quy định về người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không cụ thể, rõ ràng nên thực tiễn áp dụng không thống nhất; quy định việc cấp Giấy chứng nhận cho người bào chữa theo từng giai đoạn tố tụng là không cần thiết, rườm rà về thủ tục, lãng phí thời gian, giấy tờ (Điều 56)… Quy định trách nhiệm của cơ quan THTT, người THTT trong việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện các quyền của người tham gia tố tụng chưa đầy đủ và cụ thể, chưa quy định chế tài trong trường hợp các cơ quan THTT và người THTT không thực hiện nghĩa vụ của mình nên trong một số trường hợp còn làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng đã được Bộ luật quy định.

 Chứng cứ và chứng minh

Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự còn bộc lộ nhiều tồn tại, vướng mắc: Quy định chứng cứ được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định (Điều 64) là chưa phù hợp vì ngoài ra, CQĐT, VKS còn áp dụng các biện pháp hợp pháp khác để thu thập chứng cứ hoặc tiếp nhận các tài liệu do thanh tra, kiểm tra của các cơ quan, tổ chức chuyển đến, cũng có giá trị chứng minh. Chủ thể thu thập chứng cứ chưa bao gồm các cơ quan Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm… trong khi các cơ quan này được giao tiến hành một số hoạt động điều tra; chưa quy định quyền thu thập chứng cứ của bị can, bị cáo, người bào chữa là chưa thỏa đáng, chưa tạo sự bình đẳng với bên buộc tội. Quy định nguồn chứng cứ được ghi nhận chủ yếu bằng hình thức văn bản chưa đáp ứng sự phát triển của thực tiễn khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển, các băng ghi âm, ghi hình, tài liệu điện tử có giá trị chứng minh nhưng chưa được ghi nhận cụ thể; kết luận của Hội đồng định giá tài sản, các bản tự khai, ghi lời khai ở cấp xã, phường, biên bản tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú… chưa được quy định rõ là chứng cứ. Quy định về phạm vi và thời điểm thu thập chứng cứ bộc lộ một số khiếm khuyết. Trên thực tế, các hoạt động như trưng cầu giám định, định giá tài sản, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại được thực hiện trước khi khởi tố vụ án hình sự nhưng chưa được coi là chứng cứ. Trong nhiều trường hợp, sau khi khởi tố vụ án hình sự, việc lấy lại lời khai của những người này là rất khó khăn, thậm chí không thể thực hiện được do người cung cấp lời khai ở xa hoặc đã chết. Việc chuyển giao vật chứng trong các giai đoạn tố tụng quy định chưa cụ thể nên thực hiện không thống nhất; trường hợp chuyển giao vật chứng là vũ khí quân dụng gặp nhiều khó khăn; các quy định về xử lý vật chứng ở giai đoạn điều tra, truy tố chưa đầy đủ (Điều 76), chưa dự liệu hết đặc thù của các loại vật chứng để xử lý cho phù hợp, tránh thất thoát, hư hỏng, lãng phí, gây thiệt hại cho chủ sở hữu…

Trong thực tiễn trưng cầu giám định và thực hiện giám định trong TTHS cũng có những vướng mắc cơ bản như: chưa quy định rõ thẩm quyền, trình tự, những nội dung yêu cầu của quyết định trưng cầu giám định (Điều 125); không quy định thủ tục trưng cầu giám định trong các giai đoạn tố tụng; không quy định rõ thời điểm trưng cầu và tiến hành giám định, không quy định nguyên tắc lấy mẫu vật để gửi đi giám định; quy định những trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định (khoản 3 Điều 155) chưa đầy đủ; không quy định rõ các trường hợp không phải trưng cầu giám định…

Các biện pháp ngăn chặn

Quy định về biện pháp ngăn chặn chưa chặt chẽ, chưa cụ thể: Quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam chưa chặt chẽ nên dễ bị lạm dụng. Phạm vi chủ thể và quyền hạn khi áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ chưa đầy đủ trong trường hợp bắt truy nã, quả tang, bắt khẩn cấp như việc lục soát, tước hung khí của người bị bắt; việc không quy định cho Cơ quan Kiểm lâm, Cảnh sát biển có quyền bắt khẩn cấp, Kiểm lâm và Hải quan không có quyền tạm giữ người đã gây khó khăn cho việc điều tra, ngăn chặn tội phạm. Quy định căn cứ bắt người trong trường hợp khẩn cấp “xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ” (Điều 81) mang tính tùy nghi, phụ thuộc vào nhận định của người THTT, dễ bị lạm dụng; thiếu quy định về căn cứ tạm giữ (Điều 86) nên hầu hết những người bị bắt khẩn cấp, quả tang hay đầu thú, tự thú đều bị tạm giữ. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng dựa vào tiêu chí duy nhất là sự phân loại tội phạm mà không xuất phát từ mục đích áp dụng các biện pháp này là ngăn chặn người phạm tội tiếp tục phạm tội, bỏ trốn, gây khó khăn, cản trở hoạt động tố tụng, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm dụng biện pháp tạm giam trên thực tế; một số quy định không áp dụng biện pháp tạm giam, áp dụng tạm giam trong một số trường hợp bị lợi dụng trong thực tiễn, không phù hợp với thực tế… Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm chưa cụ thể nên chưa phát huy hiệu quả trong thực tiễn…

Thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử

Bên cạnh quy định thời hạn tố tụng điều tra, truy tố, xét xử và thời hạn tạm giam còn bất cập với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm thì thẩm quyền xác minh, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm; khởi tố vụ án, khởi tố bị can cũng còn có nhiều hạn chế, bất cập. Chưa phân loại, làm rõ khái niệm “thông tin tội phạm” và “tố giác, tin báo về tội phạm” (Điều 103) dẫn đến lúng túng trong việc phân loại; Bộ luật không quy định cụ thể trình tự, thủ tục tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm nên việc quản lý, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm còn kém hiệu quả. Quy định về khởi tố theo yêu cầu của người bị hại (Điều 105) chưa chặt chẽ, mất thời gian, công sức, chi phí tố tụng của các cơ quan và người THTT. Quy định việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can chưa dự liệu trường hợp chưa đủ căn cứ vững chắc để phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can. Quy định quyết định khởi tố bị can phải được ghi rõ điều, khoản của Bộ luật Hình sự (Điều 126) rất khó được thực hiện, do tài liệu, chứng cứ thu thập được ban đầu không thể đánh giá toàn diện và đầy đủ chính xác bị can bị khởi tố theo khoản nào của Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra, quy định thủ tục tiến hành một số hoạt động điều tra có nhiều điểm chưa cụ thể, không khả thi, làm cho thực tiễn áp dụng gặp khó khăn, vướng mắc; căn cứ tạm đình chỉ và đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án chưa rõ ràng, thủ tục phục hồi truy tố, xét xử chưa được quy định; căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan THTT chưa cụ thể; quy định chuyển vụ án chưa phù hợp với thực tế; vấn đề nhập, tách vụ án hình sự còn chung chung, chưa đầy đủ; quy định các nội dung cần phải có trong bản cáo trạng còn quá dài; một số thủ tục xét xử còn mâu thuẫn, chưa thể hiện đầy đủ tính công khai, minh bạch, theo hướng tranh tụng; thủ tục kháng cáo, kháng nghị và thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm còn bất cập, ảnh hưởng đến chất lượng và kéo dài việc giải quyết vụ án; thủ tục giám đốc thẩm chưa chặt chẽ, còn nhiều bất cập; về thủ tục rút gọn, thủ tục đối với người chưa thành niên, hợp tác quốc tế chưa phù hợp với thực tiễn, chưa có tính đặc thù; kỹ thuật trình bày Bộ luật TTHS chưa hợp lý.

Về công tác tổ chức thực hiện Bộ luật

Việc xây dựng và hoàn thiện văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật TTHS chưa thực sự được các cơ quan tư pháp Trung ương quan tâm đúng mức. Công tác phối hợp giữa các cơ quan tư pháp Trung ương trong việc xây dựng, ban hành các văn bản liên tịch có lúc chưa tích cực, chưa chủ động nên không kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong công tác điều tra, truy tố, xét xử… ; nhiều văn bản hướng dẫn còn mang tính đơn ngành nên chưa tạo ra nhận thức chung, thống nhất, do đó, phạm vi áp dụng bị giới hạn; công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật TTHS vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều quy định của Bộ luật TTHS vướng mắc nhưng không có hướng dẫn liên ngành hoặc chậm hướng dẫn; các văn bản mới chủ yếu tập trung tháo gỡ, giải quyết những khó khăn, vướng mắc cụ thể, chưa có tính dự báo cao; có một số văn bản hướng dẫn áp dụng về cùng một vấn đề nhưng có sự mâu thuẫn… Mặt khác, việc tổ chức thực hiện Bộ luật TTHS trong thực tiễn còn chậm, nhiều nội dung của Bộ luật không được tập huấn hoặc tập huấn chậm nên cơ quan THTT thực hiện không đúng hoặc không dám thực hiện. Công tác tập huấn ở phạm vi còn hẹp, đối tượng được tập huấn chưa rộng rãi, nhiều Thông báo rút kinh nghiệm giải quyết các vụ án chưa được truyền đạt sâu rộng đến cơ quan tư pháp cấp huyện…

Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp còn chưa hợp lý. CQĐT của lực lượng CAND còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, quy định về chức năng, nhiệm vụ chưa cụ thể, rõ ràng. Tổ chức bộ máy các cơ quan THTT trong Quân đội còn nhiều bất cập, chưa phù hợp thực tế. Số lượng VKS quân sự chưa tương ứng với số lượng CQĐT quân sự, VKS quân sự trên địa bàn… Quy định tăng thẩm quyền giải quyết vụ án cho cơ quan tư pháp cấp huyện nhưng chỉ tiêu, biên chế tăng không đáng kể, thiếu so với chỉ tiêu biên chế được giao; trình độ chuyên môn của người THTT nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu, kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều, chưa chủ động và phát huy hết trách nhiệm trong công tác. Việc quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo một số cơ quan tư pháp địa phương còn thiếu sót; chưa thường xuyên theo dõi, nắm bắt những hạn chế của Điều tra viên, KSV, Thẩm phán để chấn chỉnh, khắc phục kịp thời; công tác kiểm tra, hướng dẫn của cấp trên đối với cấp dưới chưa thường xuyên, kịp thời, có nơi, có lúc bị buông lỏng. Công tác phối hợp giữa các cơ quan THTT, người THTT còn mang tính hình thức, không chặt chẽ, còn nể nang, né tránh; cơ chế ràng buộc trách nhiệm chưa cụ thể, rõ ràng. Trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp còn chật hẹp; cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện bảo đảm công tác còn thiếu thốn, lạc hậu; chế độ lương và phụ cấp đối với các chức danh tư pháp, kinh phí nghiệp vụ còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.   
 

B.B.T

.