Theo đó, trong thời kỳ hôn nhân bà Hoàng Thị Thu Hằng và ông Trần Nguyễn Phúc Vũ (cùng trú tại Đà Nẵng) có tạo lập được khối tài sản chung là lô đất số hiệu 28.B2.14. Ngày 6/11/2012, bà Hằng và ông Vũ thỏa thuận chia tài sản sau ly hôn đối với lô đất 28.B2.14. Theo thỏa thuận, bà Hằng được công nhận là chủ sử dụng lô đất nói trên và được quyền làm thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đổi lại bà Hằng phải thối trả cho ông Vũ 300 triệu đồng số tiền giá trị lô đất sau khi đã cấn một khoản nợ giữa ông Vũ và bà Hằng. Hai bên thống nhất giá trị lô đất là 1 tỷ đồng. Thỏa thuận được xác lập bằng văn bản công chứng số 001274 tại Phòng công chứng Quốc Thái (Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng).

Tuy nhiên, sau đó bà Hằng chưa trả số tiền theo thỏa thuận cho ông Vũ nhưng đã làm được GCN QSDĐ cho lô đất 28.B2.14. Đồng thời, xung quanh lô đất này cũng phát sinh việc mua bán chuyển nhượng giữa bà Hằng và một số người khác.

leftcenterrightdel
VKSND tối cao đã nhận đơn xin xem xét thủ tục giám đốc thẩm của bà Hằng 

Năm 2016, ông Vũ khởi kiện yêu cầu chia lại tài sản đối với lô đất 28.B2.14 và yêu cầu hủy GCN QSDĐ số CĐ 962078 đã cấp cho bà Hằng. Tại bản án sơ thẩm số 18/2017/HNGĐ-ST, TAND TP. Đà Nẵng tuyên: chấp nhận một phần yêu cầu tranh chấp chia tài sản của ông Trần Nguyễn Phúc Vũ; không chấp nhận yêu cầu hủy GCN QSDĐ số CĐ 962078 đã cấp cho bà Hằng. Buộc bà Hằng thanh toán cho ông Vũ 300 triệu đồng theo thỏa thuận chia tài sản giữa bà Hằng và ông Vũ lập năm 2012 và 123.900.000 tiền lãi suất. Tổng cộng bà Hằng phải trả cho ông Vũ 423.900.000. Bản án này ông Vũ kháng cáo về việc chia tài sản, bà Hằng kháng cáo về Hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà với những người khác xung quanh lô đất.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 01/2018/HNGĐ-PT của TAND cấp cao tại Đà Nẵng tuyên chấp nhận yêu cầu chia tài sản của ông Vũ. Buộc bà Hằng thanh toán cho ông Vũ 1.095.000.000; Không chấp nhận hủy giấy CNQSD đất cấp cho bà Hằng. Không chấp nhận hủy Hợp đồng chuyển nhượng lô đất giữa bà Hằng và một người khác.

Đến ngày 2/2/2018, TAND cấp cao tại Đà Nẵng có Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm số 27/2018/QĐ-SCBSBA với lý do “nghe nhầm” quan điểm của đại diện VKSND cấp cao tại Đà Nẵng về căn cứ tính tiền và số tiền buộc phải trả cho ông Vũ. Sửa bản án, buộc bà Hằng trả cho ông Vũ  số tiền 1.560.000.000 đồng thay vì 1.095.000.000 đồng như bản án đã tuyên.

leftcenterrightdel
Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án 

Mới đây bà Hằng có đơn gửi TAND tối cao và VKSND tối cao xin được xem xét thủ tục giám đốc thẩm vụ án này. Trong đơn, bà Hằng cho rằng thỏa thuận giữa bà và ông Vũ được xác lập bằng văn bản công chứng số 001274 năm 2012 và đang có hiệu lực nhưng HĐXX phúc thẩm không tôn trọng thỏa thuận hợp pháp này, ép buộc bà phải trả cho ông Vũ số tiền 1.560.000.000 đồng, cao hơn giá trị ban đầu của lô đất chỉ 1 tỷ đồng là không hợp lý.

Hơn nữa, do GCN QSDĐ số CĐ 962078 bị cấp sai nên ông Vũ khởi kiện yêu cầu hủy GCN này. Ông Vũ cũng chứng minh bà Hằng chưa trả tiền cho ông, chưa đủ điều kiện được cấp sổ đỏ, chưa được toàn quyền sử dụng lô đất. Văn phòng đăng ký đất đai Ngũ Hành Sơn cũng đã từng trả hồ sơ cấp sổ đỏ do thiếu điều kiện để được cấp giấy. Đặc biệt, lô đất luôn tranh chấp, chưa bao giờ hòa giải thành. Quyết định số 65/2016/QĐST-HNGĐ ngày 22/6/2016 đình chỉ vụ án tranh chấp lô đất cũng do hòa giải không thành. Theo quy định của luật đất đai thì GCN QSDĐ này đã được cấp trái quy định. Nhưng HĐXX phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của ông Vũ là cũng chưa hợp lý.

Từ việc HĐXX chấp nhận GCN QSDĐ cho bà Hằng dẫn đến công nhận Hợp đồng chuyển nhượng lô đất giữa bà Hằng và một người khác theo bà Hằng là điểm chưa hợp lý. Bên cạnh đó bà Hằng cũng cho rằng trong vụ án này HĐXX đã sử dụng bút lục của một vụ án khác đã bị đình chỉ xét xử để làm bằng chứng căn cứ xử án là không đúng quy định pháp luật.

Xuân Nha