Theo Cáo trạng truy tố, từ năm 2019 đến năm 2021, Nguyễn Thị Mỹ Phượng (tên gọi khác: Linh nhỏ; SN: 2000; trú: xã Phước Hưng, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đã tuyển nhiều cô gái Việt Nam đưa sang Trung Quốc để gả bán cho những người đàn ông Trung Quốc có nhu cầu lấy vợ Việt Nam nhằm hưởng lợi. Cụ thể như sau:

Vụ thứ 1:  Năm 2019, thông qua mạng xã hội Facebook, Phượng kết bạn làm quen với 2 đối tượng tại thành phố Hồ Chí Minh (không rõ nhân thân lai lịch) đang tuyển các cô gái Việt Nam đưa sang Trung Quốc lấy chồng bất hợp pháp. Phượng liên lạc với 2 đối tượng này và thỏa thuận nếu Phượng đưa được 1 cô gái Việt Nam để sang Trung Quốc gả bán được thì Phượng được trả 90.000.000 đồng.

leftcenterrightdel
 Các bị cáo  tại phiên xét xử sơ thẩm

Sau đó, Phượng nói với chị Q. và chị  M. là sang Trung Quốc lấy chồng khoảng 1 tuần rồi trốn về Việt Nam thì sẽ được Phượng trả 60.000.000 đồng; chị Q. và chị M. đồng ý.

Theo hướng dẫn của Phượng, chị Q. và chị M. đi xe khách đến thành phố Hồ Chí Minh thì có 2 người đến đón mua vé máy bay ra Hà Nội, rồi sẽ có người dẫn sang Trung Quốc bằng đường bộ. Khi đến Trung Quốc, chị M. được gả bán cho người đàn ông (không biết tên), 2 đối tượng (Nga, Quý) chỉ trả cho Phượng 50.000.000 đồng. Sau đó, chị M. liên lạc với Phượng (qua Zalo) đòi về Việt Nam thì Phượng nói chờ họ chuyển đủ tiền rồi về nhưng chị M. không đồng ý. Vì vậy, Phượng dùng số tiền được trả, chi 35.000.000 đồng để đưa chị M. về Việt Nam, Phượng hưởng lợi 15.000.000 đồng. Chị Q. bị gả bán cho một người đàn ông Trung Quốc ở tỉnh Hà Nam nhưng không được Phượng trả tiền như thỏa thuận. Đến tháng 3/2020, chị Q. nhờ người giúp trốn về Việt Nam.

Vụ thứ 2:  Năm 2020, Phượng quen với đối tượng tên Bình (không rõ nhân thân, lai lịch là người Việt Nam lấy chồng Trung Quốc) và biết Bình đang tuyển các cô gái Việt Nam sang Trung Quốc lấy chồng. Phượng và Bình thỏa thuận nếu gả bán được một cô gái cho người đàn ông Trung Quốc thì Bình sẽ trả cho Phượng số tiền 110.000.000 đồng.

Sau đó, Phượng dụ dỗ 4 người bạn T., H., D. và V. là nhân viên làm chung quán Karaoke tại thành phố Vũng Tàu đi sang Trung Quốc lấy chồng thì Phượng sẽ trả cho gia đình mỗi cô gái 80.000.000 đồng, Phượng nói với các cô gái khi nào lấy được tiền thì tìm cách trốn về Việt Nam. Khoảng tháng 9/2020, Bình đặt vé máy bay cho Phượng và 4 người này đi từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội rồi qua Trung Quốc bằng đường tiểu ngạch. Bình cho xe ô tô đến đón về nhà Bình (tại Trung Quốc) rồi tìm người gả bán các cô gái. Bình gả bán được chị T., H. nên trả cho Phượng số tiền 220.000.000 đồng. Phượng trả cho chị T., H. mỗi người 50.000.000 đồng (tiền mặt) và trừ chi phí ăn uống, đi đường của chị T., chị H. là 40.000.000 đồng, Phượng hưởng lợi được 80.000.000 đồng. Trường hợp gả bán chị D. thì Bình không trả tiền nhưng khi chị D. về Việt Nam, Phượng đã trả cho D. 70.000.000 đồng.

Đối với chị V. không tìm người được người gả bán nên Phượng liên lạc với ABin (người Trung Quốc) là bạn trai của Nguyễn Thị Mỹ L. (SN: 1997; trú: huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), là chị gái của Phượng để tìm người gả bán chị V.. ABin đồng ý rồi đón chị V. về nhà ABin. Sau khi gả bán được chị V. thì ABin  chuyển cho Phượng số tiền 110.000.000 đồng. Phượng đã chuyển cho gia đình chị V. 70.000.000 đồng; trả chi phí đi đường, ăn uống cho chị V. hết 15.000.000 đồng còn Phượng hưởng lợi 25.000.000 đồng. Như vậy, khi gả bán được các chị T., H., D.và V. thì Phượng được hưởng lợi 105.000.000 đồng.

Vụ thứ 3: Tháng 2/2021, khi Phượng đang ở Việt Nam nhưng vẫn liên lạc với ABin bàn bạc về việc đưa các cô gái Việt Nam sang Trung Quốc gả bán để hưởng lợi. Phượng dụ dỗ được chị X. và chị H. rồi Phượng đặt vé máy bay cho chị X. và chị H. đến Hà Nội. Phượng giao chị X. và chị H. cho đối tượng tên Gió (chưa xác minh được nhân thân, lai lịch) để đưa sang Trung Quốc giao cho ABin. ABin gả bán được chị H. cho đàn ông Trung Quốc rồi chuyển cho Phượng số tiền 110.000.000 đồng. Phượng chuyển cho gia đình chị H. 70.000.000 đồng; trừ chi phí đưa chị H. sang Trung Quốc 15.000.000 đồng, Phượng hưởng lợi số tiền 25.000.000 đồng. Riêng chị X. chưa gả được thì bị Công an Trung Quốc bắt giữ do cư trú bất hợp pháp.

Vụ thứ 4: Tháng 3/2021, lúc này khi đang ở Trung Quốc, Phượng gọi điện bàn bạc với ban trai là Nguyễn Thanh Hoài Nam (tên gọi khác: Quậy; sinh năm: 1989; trú: Ấp Phú Trường, xã Song Phú, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long) đón chị L. và chị Y. đưa sang Trung Quốc gả bán cho người đàn ông Trung Quốc lấy tiền hưởng lợi. Nam đồng ý, đặt vé máy bay cho cả ba người từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội rồi đi ô tô đến tỉnh Cao Bằng. Tại đây có đối tượng tên Gió (chưa xác định nhân thân, lai lịch) do Phượng thuê dẫn nhóm Nam, L. và Y. sang Trung Quốc bằng đường tiểu ngạch với giá 15.000.000 đồng/người.

Qua đến Trung Quốc, ABin và Phượng đi ô tô đến đón nhóm Nam về nhà ABin. Khoảng một tuần sau, ABin tìm được người để gả bán chị L. và  chị Y. nên ABin trả cho Phượng 220.000.000 đồng. Khi chị L. được gả bán cho người đàn ông Trung Quốc sống tại tỉnh Hà Nam được khoảng 2 - 3 ngày thì ABin, Phượng và Nam đến gặp và đề nghị chị L. viết cam kết. ABin đưa cho chị Ly 1 tờ giấy có ghi sẵn nội dung tiếng Trung Quốc, do Nam và Phượng không biết tiếng Trung Quốc nên Phượng gọi qua ứng dụng Wechat cho Linh (lúc này Linh đã về Việt Nam đang cách ly y tế) để ABin nói cho chuyện với Linh về việc dịch nội dung tờ cam kết rồi đọc cho chị Ly nội dung. Linh nhìn qua điện thoại đọc dịch nội dung tờ cam kết bằng tiếng Trung Quốc sang tiếng Việt cho chị Ly viết  nội dung: “Tôi xin cam kết lấy chồng ở tỉnh Hà Nam là tự nguyện, không ép buộc, không mua bán, nếu như tôi chạy trốn tôi xin hoàn lại số tiến và chịu mọi hình thức trước pháp luật”

Ngày 29/4/2021, ABin chuyển cho Linh số tiền 50.000.000 đồng vào tài khoản của Linh để Linh đưa cho Phượng và cho biết đây là tiền mà Phượng đưa chị L. sang Trung Quốc gả bán được. Ngoài ra, ABin cũng chuyển tiền cho Linh để Linh chuyển cho Phượng vào các ngày 26/02/2021 chuyển 38.000.000 đồng; ngày 03/5/2021 chuyển 50.000.000 đồng để trả cho các cô gái khác mà Phượng đưa sang Trung Quốc gả bán nhưng Linh không biết gả bán cô gái nào.

Kiểm tra dữ liệu điện thoại di động (video clip) của Nguyễn Thị Mỹ Phượng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sao chụp 8 hình ảnh được cắt ra từ 5 clip về việc chị Lê Thị Ly viết cam kết nội dung do Linh đọc qua Wechat được Phượng quay tại nhà người mua L. làm vợ lúc đó có mặt ABin, Phượng và Nam. Hình ảnh chị Y. ghi cam kết (nội dung giống của Ly) là do Phượng đọc cho chị Yến ghi tại nhà người mua chị Yến làm vợ cũng có mặt ABin, Phượng và Nam.

Cáo trạng số 19/CT-VKS-P2 ngày 28/02/2022 của VKSND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã truy tố các bị can Nguyễn Thị Mỹ Phượng về tội “Mua bán người” theo điểm đ khoản 3 Điều 150 Bộ luật Hình sự; Nguyễn Thanh Hoài Nam về tội “Mua bán người” theo điểm d, đ khoản 2 Điều 150 Bộ luật Hình sự; Nguyễn Thị Mỹ Linh về tội “Mua bán người” theo điểm đ khoản 2 Điều 150 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào kết quả thẩm vấn và tranh tụng tại phiên tòa, xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, xem xét hành vi vi phạm pháp luật các bị cáo Nguyễn Thị Mỹ Phượng, Nguyễn Thanh Hoài Nam, Nguyễn Thị Mỹ Linh là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người, gây ảnh hưởng rất xấu đến thuần phong mỹ tục, truyền thống người phụ nữ Việt Nam. Các bị cáo hiểu rõ việc tuyển mộ bằng hình thức lừa gạt môi giới hôn nhân đưa những người phụ nữ Việt Nam đi trái phép sang Trung Quốc để chuyển giao, bán làm vợ cho những người đàn ông Trung Quốc lấy tiền hưởng lợi bất chính là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện vì mục đích lợi nhuận, muốn kiếm tiền nhanh chóng và để thỏa mãn nhu cầu cá nhân của mình.

Hội đồng xét xử đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị Mỹ Phượng mức án 14 năm tù về tội “Mua bán người” theo điểm đ khoản 3 Điều 150 Bộ luật Hình sự; tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thanh Hoài Nam mức án 8 năm tù về tội “Mua bán người” theo điểm d, đ khoản 2 Điều 150 Bộ luật Hình sự; tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị Mỹ Linh mức án 8 năm tù về tội “Mua bán người” theo điểm đ khoản 2 Điều 150 Bộ luật Hình sự.

Trần Tùng - Việt An