Văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh là một văn bản tố tụng do Kiểm sát viên ban hành trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm nhằm để kiểm tra tính xác thực của tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; thu thập, củng cố chứng cứ, tài liệu, đồ vật để làm rõ những tình tiết liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đưa ra một số khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định về văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh của Kiểm sát viên. 

Mục đích, ý nghĩa của văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh

Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm là một trong các công tác thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của VKSND. Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của Kiểm sát viên trong công tác này là “Khi cần thiết, đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện” .

leftcenterrightdel
 VKSND huyện Tịnh Biên, An Giang kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin tố giác tội phạm tại Công an huyện. 

Mục đích của việc đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh là để kiểm tra tính xác thực của tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; thu thập, củng cố chứng cứ, tài liệu, đồ vật để làm rõ những tình tiết liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự. Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải thực hiện yêu cầu kiểm tra, xác minh của Kiểm sát viên theo quy định tại khoản 1 Điều 162 BLTTHS năm 2015, khoản 1 Điều 13 Thông tư liên tịch  số 01/2017  và Điều 41 Quy chế 111 .

Văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh là một văn bản tố tụng, phải được đưa vào hồ sơ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Văn bản này có ý nghĩa quan trọng, định hướng cho hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Điều tra viên.

Thực tế cho thấy, hoạt động này có được thực hiện kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật hay không, điều này phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng yêu cầu kiểm tra, xác minh của Kiểm sát viên. Việc đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh còn phản ánh trình độ, năng lực và trách nhiệm của Kiểm sát viên. Nếu Kiểm sát viên có năng lực tốt, tinh thần trách nhiệm cao, nắm chắc nội dung vụ việc thì sẽ đề ra được yêu cầu kiểm tra, xác minh có chất lượng tốt. Còn nếu Kiểm sát viên năng lực hạn chế, không nghiên cứu kỹ nội dung vụ việc thì đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh chung chung, không rõ ràng, trùng lặp các vấn đề mà Cơ quan điều tra, Điều tra viên đã làm rõ.

Một số khó khăn, vướng mắc 

Thực tiễn thực hiện quy định về đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh của Kiểm sát viên đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc, cụ thể:

Thứ nhất, Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân, ban hành kèm theo Quyết định số 139/QĐ-VKSTC ngày 29/4/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao vẫn giữ mức chỉ tiêu ban hành yêu cầu kiểm tra, xác minh khi thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là 100%. Việc đặt ra mức chỉ tiêu như trên dẫn đến thực tế là, để đạt và vượt chỉ tiêu này, Viện kiểm sát các địa phương, các Kiểm sát viên đã ban hành văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh đối với tất cả các tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, dù nội dung vụ việc đơn giản hay phức tạp, dẫn đến không ít văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh chất lượng không cao do  nội dung chung chung, không cụ thể hoặc yêu cầu các vấn đề đã được làm rõ.

Thực tiễn cho thấy nhiều tố giác, tin báo về tội phạm đơn giản, rõ ràng, các tình tiết của vụ việc đã được chứng minh đầy đủ, chỉ còn phải củng cố, hoàn thiện thêm về thủ tục tố tụng để ra quyết định giải quyết. Với các tố giác, tin báo này, nếu Kiểm sát viên ban hành văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh thì không biết phải yêu cầu làm rõ thêm vấn đề gì, vì thế mà nêu các yêu cầu một cách chung chung, không có chất lượng; nếu Kiểm sát viên không ban hành văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh thì lại không đạt chỉ tiêu của ngành đề ra.

leftcenterrightdel
 VKSND tỉnh Phú Thọ kiểm sát nguồn tin tố giác tội phạm tại Cơ quan CSĐT Công an tỉnh. Ảnh TL

Thứ hai, theo quy định tại khoản 1 Điều 41 Quy chế 111 thì việc đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh là để kiểm tra tính xác thực của tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; thu thập, củng cố chứng cứ, tài liệu, đồ vật để làm rõ những tình tiết liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự.

Quy định này theo chúng tôi là chưa đầy đủ. Thực tiễn cho thấy, Cơ quan điều tra, Điều tra viên thường chú trọng đến nội dung, hay có vi phạm về trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ, tài liệu và nếu không kịp thời yêu cầu khắc phục, hoàn thiện thì chứng cứ, tài liệu đó sẽ không có giá trị chứng minh các tình tiết của vụ việc. Vì thế, chúng tôi cho rằng, việc đề ra yêu cầu củng cố, hoàn thiện thủ tục tố tụng cũng rất quan trọng, cần được bổ sung vào khoản 1 Điều 41 Quy chế 111.    

Thứ ba, tại khoản 2 Điều 159 BLTTHS năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm có quy định: “Khi cần thiết, đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện”. Tuy vậy, quy định “Khi cần thiết” là chưa thật rõ ràng, cụ thể, hiện cũng chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn, giải thích, dẫn đến thực tiễn áp dụng không được thống nhất.

Thứ tư, BLTTHS năm 2015, Thông tư liên tịch số 01/2017 chưa có quy định về mục đích, hình thức, nội dung yêu cầu kiểm tra, xác minh và biện pháp xử lý khi Cơ quan điều tra, Điều tra viên không đồng ý với yêu cầu kiểm tra, xác minh của Kiểm sát viên. Điều này gây ra những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện quyền này của Kiểm sát viên như: khi Cơ quan điều tra, Điều tra viên không nhất trí với một số vấn đề nêu trong yêu cầu kiểm tra, xác minh của Kiểm sát viên thì giải quyết thế nào? Trường hợp vì lý do khách quan mà Cơ quan điều tra, Điều tra viên không thể thực hiện được yêu cầu kiểm tra, xác minh của Kiểm sát viên thì xử lý ra sao? Mặc dù vấn đề này tại Điều 41 Quy chế số 111 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có hướng dẫn nhưng đây chỉ là Quy chế của ngành Kiểm sát, không phải văn bản quy phạm pháp luật nên tính bắt buộc thực hiện đối với Cơ quan điều tra, Điều tra viên không cao. 

Thứ năm, trong BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan đều chưa có quy định tiêu chí để xác định khi nào Kiểm sát viên phải đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh bằng văn bản, khi nào thì có thể yêu cầu bằng lời nói. Thực tiễn cho thấy, trong việc giải quyết một số tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Kiểm sát viên vì nễ nang hoặc đánh giá không đúng tính chất vụ việc nên chỉ yêu cầu bằng lời nói, không nghiên cứu để ra văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh, trong khi vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp, dẫn đến việc giải quyết vụ việc không được đầy đủ.

Ngược lại, có một số vụ việc tính chất đơn giản, rõ ràng, Kiểm sát viên lại yêu cầu kiểm tra, xác minh bằng văn bản, dẫn đến nhiều yêu cầu không cần thiết, không cụ thể, rõ ràng, làm cho Điều tra viên phản ứng.

Một số đề xuất, kiến nghị 

Thứ nhất, đề xuất ban hành, sửa đổi một số quy định:

- Để việc ban hành văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh có chất lượng, hiệu quả, chúng tôi cho rằng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần sửa đổi mức chỉ tiêu ban hành văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh trong Hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá kết quả công tác nghiệp vụ trong ngành Kiểm sát nhân dân, theo hướng: mức chỉ tiêu ban hành yêu cầu kiểm tra, xác minh khi thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là 80%, thay vì 100%.

- Ngoài việc đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh để kiểm tra tính xác thực của tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; thu thập, củng cố chứng cứ, tài liệu, đồ vật, thì việc đề ra yêu cầu củng cố, hoàn thiện thủ tục tố tụng cũng rất quan trọng, cần được bổ sung vào khoản 1 Điều 41 Quy chế 111.    

- Tại khoản 2 Điều 159 BLTTHS năm 2015 quy định “Khi cần thiết, đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện” là chưa thật sự rõ ràng, cụ thể. Để bảo đảm thống nhất trong thực tiễn áp dụng, chúng tôi đề nghị liên ngành Trung ương cần có văn bản hướng dẫn tiêu chí để xác định khi nào thì cần thiết phải đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh.

- BLTTHS năm 2015, Thông tư liên tịch số 01/2017 chưa quy định về mục đích, hình thức, nội dung yêu cầu kiểm tra, xác minh và biện pháp xử lý khi Cơ quan điều tra, Điều tra viên không đồng ý với yêu cầu kiểm tra, xác minh của Kiểm sát viên. Điều này gây ra những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện quyền này của Kiểm sát viên.

Để khắc phục khó khăn, vướng mắc đã nêu trên, theo chúng tôi, cần thiết phải bổ sung vào BLTTHS năm 2015 và Thông tư liên tịch số 01/2017 01 điều luật quy định về Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và thực hiện yêu cầu Kiểm tra, xác minh của Kiểm sát viên, như sau:

1. Trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, trường hợp thấy cần phải kiểm tra tính xác thực của nguồn tin về tội phạm; thu thập, củng cố chứng cứ, tài liệu, đồ vật để làm rõ những tình tiết liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự quy định tại Điều 85 và Điều 441 Bộ luật Tố tụng hình sự, Kiểm sát viên phải kịp thời đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Yêu cầu kiểm tra xác minh có thể được thực hiện nhiều lần. Văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh phải được đưa vào hồ sơ vụ việc, lưu hồ sơ kiểm sát.

2. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, bảo đảm kết quả giải quyết và các yêu cầu kiểm tra, xác minh được thực hiện đầy đủ, khách quan, đúng pháp luật. Khi thấy có vấn đề cần phải kiểm tra, xác minh thêm, Kiểm sát viên kịp thời bổ sung yêu cầu kiểm tra, xác minh; nếu Điều tra viên, Cán bộ điều tra đề nghị, Kiểm sát viên có trách nhiệm giải thích rõ nội dung những yêu cầu kiểm tra, xác minh.

Trường hợp Điều tra viên, Cán bộ điều tra không nhất trí thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra nêu rõ lý do và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, kiến nghị với Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra; trường hợp Cơ quan có thẩm quyền điều tra không thực hiện được đầy đủ các yêu cầu kiểm tra, xác minh vì lý do khách quan thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra nêu rõ lý do trong văn bản thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm

- BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan đều chưa có quy định tiêu chí để xác định khi nào Kiểm sát viên phải đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh bằng văn bản, khi nào thì có thể yêu cầu bằng lời nói. Theo chúng tôi, Liên ngành Trung ương cần ban hành văn bản quy định các trường hợp bắt buộc Kiểm sát viên phải đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh bằng văn bản, theo hướng: Với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ việc thì Kiểm sát viên phải yêu cầu kiểm tra, xác minh bằng văn bản.

Thứ hai, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh 

- Nâng cao nhận thức của cán bộ, Kiểm sát viên về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh điều tra đối với công tác giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

- Mỗi cán bộ, Kiểm sát viên cần tự mình rút kinh nghiệm về đề ra văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh sau mỗi một vụ việc. Tích cực học tập kinh nghiệm đề ra văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh của cán bộ, Kiểm sát viên khác thông qua trao đổi, nghiên cứu các bài viết trên sách, báo, tạp chí... 

- VKSND tối cao yêu cầu Viện kiểm sát các địa phương định kỳ có báo cáo tổng kết kinh nghiệm về thực hiện quyền đề ra văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh, tiến hành tổng hợp, phổ biến kinh nghiệm cho các địa phương, từng cán bộ, Kiểm sát viên trong ngành.

- Viện kiểm sát cấp trên tăng cường tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ, Kiểm sát viên về kỹ năng, kinh nghiệm đề ra văn bản văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh; thường xuyên tổ chức các cuộc thi viết về kỹ năng đề ra văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ, Kiểm sát viên.

- Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra các địa phương cần căn cứ vào Bộ luật tố tụng hình sự, Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT và các văn bản pháp luật khác có liên quan để xây dựng quy chế phối hợp trong hoạt động giải quyết nguồn tin về tội phạm, trong đó chú trọng nội dung phối hợp về thực hiện văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh của Kiểm sát viên.

- Viện kiểm sát cấp trên tăng cường kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ đối với Viện kiểm sát cấp dưới, chú trọng kiểm tra chất lượng, kết quả thực hiện các văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh của Kiểm sát viên.

 
Nguyễn Cao Cường - VKSND huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế